Chủ nhật 07/12/2025 14:30
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đổi mới mô hình cơ quan đăng ký hộ tịch ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Việc đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta phải bảo đảm nguyên tắc mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan và chính xác; mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền.

1. Khái niệm về đăng ký hộ tịch

Đăng ký hộ tịch (bao gồm: Đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, đăng ký kết hôn, đăng ký giám hộ…) đã có ngay từ khi xuất hiện nhà nước, xuất phát từ nhu cầu: Trẻ em được sinh ra phải có văn bản ghi nhận sự kiện sinh, cá nhân chết đi phải có văn bản xác nhận sự kiện chết. Từ đó, vấn đề đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử được đặt ra.

Ở Việt Nam thuật ngữ “đăng ký hộ tịch” lần đầu tiên xuất hiện tại Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch. Theo đó, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

- Xác nhận các sự kiện: Sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi.

- Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo thủ tục, trình tự được quy định tại Nghị định này là bằng chứng công nhận các sự kiện về hộ tịch, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức[1].

Như vậy, có thể hiểu đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi vào sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và thực hiện quản lý về dân cư. Đăng ký hộ tịch bao gồm: Khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính...

Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời, tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc (có đội ngũ hộ lại là người nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng ký các việc hộ tịch trong địa bàn cấp xã do mình phụ trách). Từ năm 1945 đến nay mô hình quản lý hộ tịch thường xuyên có sự thay đổi. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, sau khi biến nước ta thành thuộc địa, thực dân Pháp đã áp dụng chế độ quản lý hộ tịch theo mô hình của nước Pháp. Tại miền Bắc, việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định của bộ Dân luật Bắc kỳ. Còn ở miền Trung việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định của bộ Hoàng Việt Trung Hộ Luật do triều đình nhà Nguyễn ban hành.

Hiện nay, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch luôn được đẩy mạnh, mô hình cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch đều được đổi mới, củng cố, việc phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch cho chính quyền địa phương cơ bản triệt để theo nguyên tắc cơ quan trung ương và cấp tỉnh chỉ quản lý nhà nước không trực tiếp thực hiện công tác đăng ký hộ tịch.

2. Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch

2.1. Quy định pháp luật về cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch

Trước đây, việc phân cấp đăng ký hộ tịch chưa triệt để, thẩm quyền đăng ký hộ tịch còn phân tán ở cả 3 cấp (cấp tỉnh, huyện, xã vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước vừa làm nhiệm vụ đăng ký hộ tịch) dẫn đến tình trạng cồng kềnh về bộ máy, phức tạp về xác định thẩm quyền và thủ tục, chồng chéo giữa chức năng quản lý và chức năng đăng ký.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật hộ tịch, ở cấp Trung ương, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, trong đó Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện, công chức tư pháp - hộ tịch giúp UBND cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi địa phương.

Pháp luật hộ tịch đã quy định theo hướng phân cấp một bước về thẩm quyền, giao cho UBND cấp huyện thực hiện việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài và thực hiện đăng ký các việc hộ tịch khác như: Thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc; ghi vào sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. UBND cấp xã thực hiện đăng ký các việc hộ tịch như: Đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam, cư trú trong nước; thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi; ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực hộ tịch đã tạo cho chính quyền địa phương quyền chủ động, phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm, tăng cường vai trò quản lý nhà nước của UBND các cấp, nhất là UBND cấp tỉnh, đồng thời, cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đăng ký hộ tịch tại UBND cấp huyện, UBND cấp xã.

Trực tiếp làm công tác đăng ký hộ tịch là đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, bao gồm: Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện.

Về tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch, Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp với yêu cầu công việc. Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Luật Hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định: Từ ngày 01/01/2016, người có thẩm quyền chỉ được bố trí, tuyển dụng mới người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch làm công tác hộ tịch (Điều 8). Như vậy, có thể thấy, việc đặt ra tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch nhằm hướng tới mục đích xây dựng một đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch có đủ tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của công việc trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Thực trạng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch

- Về số lượng: Hiện tại, trên cả nước, số lượng bình quân công chức làm công tác hộ tịch là bình quân 4,5 người/Phòng Tư pháp, trong đó có trình độ cử nhân luật trở lên chiếm 89,58%; đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, trong hơn 10.598 đơn vị hành chính cấp xã[2] có khoảng gần 20.000 công chức tư pháp - hộ tịch (trong đó, số xã có 02 công chức tư pháp - hộ tịch chiếm khoảng 65%), số công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ trung cấp luật trở lên chiếm 83%.

- Về chất lượng: Đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch các địa phương có trình độ chuyên môn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu công việc. Đối với công chức làm công tác hộ tịch tại các Phòng Tư pháp, hầu hết đều có trình độ cử nhân luật, có Phòng Tư pháp có thạc sĩ luật. Do vậy, về cơ bản, đảm nhiệm được khối lượng công việc của Phòng Tư pháp, nhất là mảng việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, hiện các địa phương cũng chú trọng bố trí công chức có trình độ chuyên môn phù hợp (chuyên ngành luật), đối với những công chức chưa có trình độ chuyên môn phù hợp (số công chức này một số người có kinh nghiệm nhiều năm trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, một số người đã cao tuổi, sắp nghỉ hưu hưởng chế độ hưu trí) địa phương cũng tạo điều kiện để công chức theo học các lớp đào tạo về chuyên ngành luật (trung cấp hoặc đại học). Tuy nhiên, đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch chưa ổn định, phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau.

Hiện nay, ở các xã, phường, thị trấn, công chức tư pháp - hộ tịch ngoài việc tham mưu, giúp UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) phải đảm nhiệm 15 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong khi đó, trên thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và các công tác tư pháp khác (công tác văn bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau, không phù hợp với việc ghép chung một cách cơ học hai loại nhiệm vụ này trong cùng một chức danh tư pháp - hộ tịch. Cũng chính vì phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên công chức tư pháp - hộ tịch không có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như cập nhật kịp thời những văn bản mới. Mặt khác, công chức tư pháp - hộ tịch là vị trí dễ bị thay đổi theo nhiệm kỳ của UBND nên chuyên môn bị hạn chế do không được bồi dưỡng nghiệp vụ kịp thời. Đây chính là nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.

3. Giải pháp đổi mới mô hình đăng ký, quản lý hộ tịch

3.1. Xây dựng chức danh hộ tịch viên

Ở một số nước trên thế giới, mô hình hộ tịch viên đã được áp dụng và mang lại hiệu quả nhất định trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch. Ở Đức, việc đăng ký hộ tịch do công chức hộ tịch thực hiện. Công chức hộ tịch được bổ nhiệm theo địa giới hành chính, qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, được hưởng lương công chức, được bổ nhiệm suốt đời, đặc biệt, cán bộ hộ tịch ở Đức có quyền quyết định độc lập và chỉ bị thay đổi bởi quyết định của Tòa án. Ở Anh, Scotlan, Iceland, Mỹ, Ấn Độ, Philippin, Malaysia, hộ tịch viên hoạt động chuyên trách theo mô hình Tổng cục đăng ký thuộc Văn phòng Thống kê quốc gia.

Ở nước ta hiện nay, do thực trạng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng, phụ thuộc biên chế của địa phương và phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác dẫn đến những sai sót trong đăng ký hộ tịch. Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác hộ tịch thì cần thiết phải ổn định, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực hiện công tác hộ tịch, cụ thể là nghiên cứu xây dựng chức danh hộ tịch viên, theo đó, hộ tịch viên là công chức thực hiện công tác hộ tịch chuyên trách, trực tiếp thực hiện công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Hộ tịch viên phải là người có kinh nghiệm trong công tác pháp luật, có trình độ từ trung cấp luật trở lên, đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, có khả năng sử dụng thành thạo máy tính. Hộ tịch viên được hưởng phụ cấp đặc thù, do Chủ tịch UBND bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời.

Việc xây dựng chức danh hộ tịch viên sẽ bảo đảm sự kiện hộ tịch được đăng ký chính xác, khách quan, chuyên nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đăng ký, quản lý hộ tịch.

3.2. Đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch

Việc đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta phải bảo đảm nguyên tắc mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan và chính xác; mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền.

Trên thế giới, tùy thuộc vào cách thức quản lý dân cư mà mô hình, thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch có sự khác nhau. Ở Hàn Quốc, cơ quan có thẩm quyền cao nhất về quản lý hộ tịch là Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống Tòa án các cấp, UBND các cấp thực hiện đăng ký hộ tịch như một đơn vị được Tòa án ủy quyền và chỉ một số vụ việc đơn giản (như đăng ký khai sinh, kết hôn...), còn những việc như cải chính hộ tịch, ly hôn... bắt buộc phải qua Tòa án. Ở Đức, mỗi thành phố chỉ có một cơ quan đăng ký hộ tịch...

Thực tiễn ở nước ta hiện nay có thể nghiên cứu tổ chức mô hình cơ quan đăng ký hộ tịch theo hướng thành lập Chi cục Đăng ký hộ tịch theo đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cụ thể, mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh thành lập một hoặc một số Chi cục Đăng ký hộ tịch, tùy thuộc quy mô dân số, số lượng việc đăng ký hộ tịch hàng năm. Chi cục Đăng ký hộ tịch có chức năng tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. Chi cục Đăng ký hộ tịch chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, chịu sự quản lý về tổ chức biên chế của UBND cấp tỉnh. Đứng đầu Chi cục Đăng ký hộ tịch là Chi cục trưởng, do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm trên cơ sở thống nhất với Bộ Tư pháp.

Đỗ Đình Chuyền

Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực

Ảnh: internet


* Phạm vi bài viết chỉ đề cập đến mô hình đăng ký, quản lý hộ tịch của cơ quan đăng ký trong nước.

[1] Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch.

[2] Tính đến tháng 4/2023.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: