Thứ ba 17/06/2025 02:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đổi mới mô hình cơ quan đăng ký hộ tịch ở nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp

Việc đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta phải bảo đảm nguyên tắc mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan và chính xác; mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền.

1. Khái niệm về đăng ký hộ tịch

Đăng ký hộ tịch (bao gồm: Đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử, đăng ký kết hôn, đăng ký giám hộ…) đã có ngay từ khi xuất hiện nhà nước, xuất phát từ nhu cầu: Trẻ em được sinh ra phải có văn bản ghi nhận sự kiện sinh, cá nhân chết đi phải có văn bản xác nhận sự kiện chết. Từ đó, vấn đề đăng ký khai sinh, đăng ký khai tử được đặt ra.

Ở Việt Nam thuật ngữ “đăng ký hộ tịch” lần đầu tiên xuất hiện tại Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch. Theo đó, hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền:

- Xác nhận các sự kiện: Sinh; kết hôn; tử; nuôi con nuôi; giám hộ; nhận cha, mẹ, con; thay đổi họ, tên, chữ đệm; cải chính họ, tên, chữ đệm, ngày, tháng, năm sinh; xác định lại dân tộc; đăng ký khai sinh, khai tử quá hạn; đăng ký lại các việc sinh, tử, kết hôn, nhận nuôi con nuôi.

- Căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác do pháp luật quy định. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp theo thủ tục, trình tự được quy định tại Nghị định này là bằng chứng công nhận các sự kiện về hộ tịch, làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức[1].

Như vậy, có thể hiểu đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận, ghi vào sổ các sự kiện hộ tịch của cá nhân nhằm xác định tình trạng nhân thân của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và thực hiện quản lý về dân cư. Đăng ký hộ tịch bao gồm: Khai sinh, kết hôn, ly hôn, khai tử, nuôi con nuôi, giám hộ, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính...

Ở nước ta, việc đăng ký và quản lý hộ tịch có lịch sử lâu đời, tuy nhiên, việc quản lý hộ tịch được thực hiện một cách đầy đủ, khoa học chỉ được bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc (có đội ngũ hộ lại là người nắm giữ sổ sách hộ tịch và trực tiếp đăng ký các việc hộ tịch trong địa bàn cấp xã do mình phụ trách). Từ năm 1945 đến nay mô hình quản lý hộ tịch thường xuyên có sự thay đổi. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam, sau khi biến nước ta thành thuộc địa, thực dân Pháp đã áp dụng chế độ quản lý hộ tịch theo mô hình của nước Pháp. Tại miền Bắc, việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định của bộ Dân luật Bắc kỳ. Còn ở miền Trung việc quản lý hộ tịch được thực hiện theo quy định của bộ Hoàng Việt Trung Hộ Luật do triều đình nhà Nguyễn ban hành.

Hiện nay, công tác đăng ký và quản lý hộ tịch luôn được đẩy mạnh, mô hình cơ quan đăng ký và quản lý hộ tịch đều được đổi mới, củng cố, việc phân cấp quản lý, đăng ký hộ tịch cho chính quyền địa phương cơ bản triệt để theo nguyên tắc cơ quan trung ương và cấp tỉnh chỉ quản lý nhà nước không trực tiếp thực hiện công tác đăng ký hộ tịch.

2. Hệ thống cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch

2.1. Quy định pháp luật về cơ quan quản lý, đăng ký hộ tịch

Trước đây, việc phân cấp đăng ký hộ tịch chưa triệt để, thẩm quyền đăng ký hộ tịch còn phân tán ở cả 3 cấp (cấp tỉnh, huyện, xã vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước vừa làm nhiệm vụ đăng ký hộ tịch) dẫn đến tình trạng cồng kềnh về bộ máy, phức tạp về xác định thẩm quyền và thủ tục, chồng chéo giữa chức năng quản lý và chức năng đăng ký.

Hiện nay, theo quy định của pháp luật hộ tịch, ở cấp Trung ương, Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi cả nước. Ở địa phương, Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch trong địa phương mình, trong đó Sở Tư pháp giúp UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp giúp UBND cấp huyện, công chức tư pháp - hộ tịch giúp UBND cấp xã thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn trong quản lý nhà nước về hộ tịch trong phạm vi địa phương.

Pháp luật hộ tịch đã quy định theo hướng phân cấp một bước về thẩm quyền, giao cho UBND cấp huyện thực hiện việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài và thực hiện đăng ký các việc hộ tịch khác như: Thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên, cư trú ở trong nước; xác định lại dân tộc; ghi vào sổ hộ tịch việc hộ tịch của công dân Việt Nam đã được giải quyết tại cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. UBND cấp xã thực hiện đăng ký các việc hộ tịch như: Đăng ký hộ tịch cho công dân Việt Nam, cư trú trong nước; thay đổi, cải chính hộ tịch cho công dân Việt Nam chưa đủ 14 tuổi; ghi vào sổ hộ tịch việc thay đổi hộ tịch theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phương trong lĩnh vực hộ tịch đã tạo cho chính quyền địa phương quyền chủ động, phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm, tăng cường vai trò quản lý nhà nước của UBND các cấp, nhất là UBND cấp tỉnh, đồng thời, cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đăng ký hộ tịch tại UBND cấp huyện, UBND cấp xã.

Trực tiếp làm công tác đăng ký hộ tịch là đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, bao gồm: Công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, công chức làm công tác hộ tịch ở Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện.

Về tiêu chuẩn công chức làm công tác hộ tịch, Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014 quy định, công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã phải có trình độ từ trung cấp luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch; có chữ viết rõ ràng và trình độ tin học phù hợp với yêu cầu công việc. Công chức làm công tác hộ tịch tại Phòng Tư pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch. Luật Hộ tịch năm 2014 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch quy định: Từ ngày 01/01/2016, người có thẩm quyền chỉ được bố trí, tuyển dụng mới người có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch làm công tác hộ tịch (Điều 8). Như vậy, có thể thấy, việc đặt ra tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch nhằm hướng tới mục đích xây dựng một đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch có đủ tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu của công việc trong giai đoạn hiện nay.

2.2. Thực trạng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch

- Về số lượng: Hiện tại, trên cả nước, số lượng bình quân công chức làm công tác hộ tịch là bình quân 4,5 người/Phòng Tư pháp, trong đó có trình độ cử nhân luật trở lên chiếm 89,58%; đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, trong hơn 10.598 đơn vị hành chính cấp xã[2] có khoảng gần 20.000 công chức tư pháp - hộ tịch (trong đó, số xã có 02 công chức tư pháp - hộ tịch chiếm khoảng 65%), số công chức tư pháp - hộ tịch có trình độ trung cấp luật trở lên chiếm 83%.

- Về chất lượng: Đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch các địa phương có trình độ chuyên môn phù hợp, đáp ứng được yêu cầu công việc. Đối với công chức làm công tác hộ tịch tại các Phòng Tư pháp, hầu hết đều có trình độ cử nhân luật, có Phòng Tư pháp có thạc sĩ luật. Do vậy, về cơ bản, đảm nhiệm được khối lượng công việc của Phòng Tư pháp, nhất là mảng việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài. Đối với công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã, hiện các địa phương cũng chú trọng bố trí công chức có trình độ chuyên môn phù hợp (chuyên ngành luật), đối với những công chức chưa có trình độ chuyên môn phù hợp (số công chức này một số người có kinh nghiệm nhiều năm trong công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, một số người đã cao tuổi, sắp nghỉ hưu hưởng chế độ hưu trí) địa phương cũng tạo điều kiện để công chức theo học các lớp đào tạo về chuyên ngành luật (trung cấp hoặc đại học). Tuy nhiên, đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch chưa ổn định, phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau.

Hiện nay, ở các xã, phường, thị trấn, công chức tư pháp - hộ tịch ngoài việc tham mưu, giúp UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) phải đảm nhiệm 15 đầu việc, trong đó có việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Trong khi đó, trên thực tế, tính chất chuyên môn của công tác hộ tịch và các công tác tư pháp khác (công tác văn bản, tuyên truyền pháp luật, hòa giải…) rất khác nhau, không phù hợp với việc ghép chung một cách cơ học hai loại nhiệm vụ này trong cùng một chức danh tư pháp - hộ tịch. Cũng chính vì phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, nên công chức tư pháp - hộ tịch không có thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn cũng như cập nhật kịp thời những văn bản mới. Mặt khác, công chức tư pháp - hộ tịch là vị trí dễ bị thay đổi theo nhiệm kỳ của UBND nên chuyên môn bị hạn chế do không được bồi dưỡng nghiệp vụ kịp thời. Đây chính là nguyên nhân làm giảm hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.

3. Giải pháp đổi mới mô hình đăng ký, quản lý hộ tịch

3.1. Xây dựng chức danh hộ tịch viên

Ở một số nước trên thế giới, mô hình hộ tịch viên đã được áp dụng và mang lại hiệu quả nhất định trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch. Ở Đức, việc đăng ký hộ tịch do công chức hộ tịch thực hiện. Công chức hộ tịch được bổ nhiệm theo địa giới hành chính, qua lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, được hưởng lương công chức, được bổ nhiệm suốt đời, đặc biệt, cán bộ hộ tịch ở Đức có quyền quyết định độc lập và chỉ bị thay đổi bởi quyết định của Tòa án. Ở Anh, Scotlan, Iceland, Mỹ, Ấn Độ, Philippin, Malaysia, hộ tịch viên hoạt động chuyên trách theo mô hình Tổng cục đăng ký thuộc Văn phòng Thống kê quốc gia.

Ở nước ta hiện nay, do thực trạng đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch chưa đảm bảo về số lượng, chất lượng, phụ thuộc biên chế của địa phương và phải kiêm nhiệm nhiều công việc khác dẫn đến những sai sót trong đăng ký hộ tịch. Do đó, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác hộ tịch thì cần thiết phải ổn định, chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực hiện công tác hộ tịch, cụ thể là nghiên cứu xây dựng chức danh hộ tịch viên, theo đó, hộ tịch viên là công chức thực hiện công tác hộ tịch chuyên trách, trực tiếp thực hiện công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch. Hộ tịch viên phải là người có kinh nghiệm trong công tác pháp luật, có trình độ từ trung cấp luật trở lên, đã được bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch, có khả năng sử dụng thành thạo máy tính. Hộ tịch viên được hưởng phụ cấp đặc thù, do Chủ tịch UBND bổ nhiệm với nhiệm kỳ suốt đời.

Việc xây dựng chức danh hộ tịch viên sẽ bảo đảm sự kiện hộ tịch được đăng ký chính xác, khách quan, chuyên nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đăng ký, quản lý hộ tịch.

3.2. Đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch

Việc đổi mới mô hình đăng ký và quản lý hộ tịch ở nước ta phải bảo đảm nguyên tắc mọi sự kiện hộ tịch phải được đăng ký đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan và chính xác; mỗi sự kiện hộ tịch chỉ được đăng ký tại một cơ quan đăng ký hộ tịch có thẩm quyền.

Trên thế giới, tùy thuộc vào cách thức quản lý dân cư mà mô hình, thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch có sự khác nhau. Ở Hàn Quốc, cơ quan có thẩm quyền cao nhất về quản lý hộ tịch là Tòa án nhân dân tối cao và hệ thống Tòa án các cấp, UBND các cấp thực hiện đăng ký hộ tịch như một đơn vị được Tòa án ủy quyền và chỉ một số vụ việc đơn giản (như đăng ký khai sinh, kết hôn...), còn những việc như cải chính hộ tịch, ly hôn... bắt buộc phải qua Tòa án. Ở Đức, mỗi thành phố chỉ có một cơ quan đăng ký hộ tịch...

Thực tiễn ở nước ta hiện nay có thể nghiên cứu tổ chức mô hình cơ quan đăng ký hộ tịch theo hướng thành lập Chi cục Đăng ký hộ tịch theo đơn vị hành chính cấp tỉnh. Cụ thể, mỗi đơn vị hành chính cấp tỉnh thành lập một hoặc một số Chi cục Đăng ký hộ tịch, tùy thuộc quy mô dân số, số lượng việc đăng ký hộ tịch hàng năm. Chi cục Đăng ký hộ tịch có chức năng tổ chức thực hiện công tác đăng ký và quản lý hộ tịch trên địa bàn tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước. Chi cục Đăng ký hộ tịch chịu sự quản lý về chuyên môn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp, chịu sự quản lý về tổ chức biên chế của UBND cấp tỉnh. Đứng đầu Chi cục Đăng ký hộ tịch là Chi cục trưởng, do Chủ tịch UBND cấp tỉnh bổ nhiệm trên cơ sở thống nhất với Bộ Tư pháp.

Đỗ Đình Chuyền

Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực

Ảnh: internet


* Phạm vi bài viết chỉ đề cập đến mô hình đăng ký, quản lý hộ tịch của cơ quan đăng ký trong nước.

[1] Điều 1 Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 của Chính phủ về đăng ký hộ tịch.

[2] Tính đến tháng 4/2023.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm