Thứ hai 08/12/2025 00:05
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015

Ngày 25/11/2015, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức thông qua Bộ luật Hình sự năm 2015 (Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2016). Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia, điểm thay đổi lớn nhất đó là Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[1] đã được sửa đổi bổ sung thành Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam[2].

Qua số liệu thống kê của Cục an ninh điều tra - Bộ Công an, từ năm 2005 đến nay, Cơ quan An ninh điều tra các cấp đã điều tra, khởi tố 104 vụ án, với 155 bị can về tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tội tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là loại tội xâm phạm an ninh quốc gia có tỷ lệ phạm tội đứng thứ hai trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia (chỉ sau Tội phá hoại chính sách đoàn kết). Do vậy, việc nghiên cứu làm rõ cấu thành tội phạm Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong Bộ luật Hình sự năm 1999, so sánh, đối chiếu quy định về loại tội này với quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 có ý nghĩa lớn về lý luận, thực tiễn trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi làm rõ những điểm mới trong quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó chỉ ra vấn đề cần hoàn thiện của Bộ luật Hình sự năm 2015 dưới góc độ lý luận.

Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định có 3 nhóm hành vi cấu thành Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên thực tế các hành vi tuyên truyền chống nhà nước rất đa dạng như: Xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội; phỉ báng công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, bôi nhọ lãnh tụ, cán bộ, công chức nhà nước; sử dụng những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc... đánh vào tâm lý của nhân dân, gieo rắc tư tưởng nghi ngờ, bất mãn, tạo sự sợ hãi, hoang mang trong nhân dân, kích động tư tưởng, hành động chống đối, oán ghét, căm thù, từ đó cổ vũ cho những hành vi làm suy yếu chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam... Chính vì điều luật quy định các hành vi theo cách liệt kê nên khó mô tả hết các hành vi phạm tội, hơn nữa trên thực tế, các đối tượng phạm tội thường thực hiện đồng thời hai hay nhiều hành vi cùng một lúc, ít khi có sự rạch ròi như các hành vi trong điều luật quy định. Chẳng hạn, khi tiến hành tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, các đối tượng cũng đồng thời phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Để tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, các đối tượng phải thực hiện các hành vi viết bài, viết sách in, vẽ truyền đơn, băng rôn, khẩu hiệu... cất giấu, lưu trữ trong các phương tiện như máy tính, máy ảnh, ổ cứng, đĩa mềm... Như vậy đã đồng thời thực hiện hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hóa phẩm có nội dung chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó đặt ra cho các nhà làm luật hướng sửa đổi bổ sung, hoàn thiện điều luật này cần xây dựng mô hình hành vi có tính bao quát hơn, phản ánh được các dạng hành vi tuyên truyền chống Nhà nước phát sinh trong thực tiễn, tránh việc liệt kê dẫn đến tình trạng chồng chéo hoặc vừa thừa, vừa thiếu, vừa khó áp dụng.

Mặt khác, cách quy định của về hành vi phạm tội của các điểm a, b, c khoản 1 Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 cũng không đồng nhất. Điểm a và b quy định về hành vi phạm tội một cách chung chung (tuyên truyền), nhưng lại liệt kê cụ thể nội dung của thông tin tài liệu tuyên truyền là xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Ngược lại, điểm c khoản 1 Điều 88 lại quy định cụ thể về hành vi phạm tội (làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, văn hoá phẩm) nhưng lại quy định chung chung về nội dung (có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Việc quy định không đồng nhất như vậy đã gây khó khăn trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch can thiệp, cản trở hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

So với Bộ luật Hình sự hiện hành, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về hành vi tuyên truyền chống nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam một cách rõ ràng, cụ thể hơn, và đưa luôn những hành vi cụ thể này vào tên Điều luật[3]. Có thể thấy, so với cách quy định về hành vi phạm tội của Bộ luật Hình sự năm 1999, cách quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có tính thống nhất ở cả 3 nhóm hành vi phạm tội, các nhà làm luật đều liệt kê cụ thể, chi tiết về hành vi phạm tội, và các nhóm hành vi phạm tội ở các điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ khác nhau về nội dung của thông tin, tài liệu, vật phẩm phục vụ cho việc tuyên truyền chống nhà nước, cụ thể:

Thứ nhất, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân: Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để xuyên tạc, đả kích các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, quản lý cán bộ, nói xấu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói xấu lãnh tụ, cán bộ, công chức nhà nước, xuyên tạc lịch sử, kích động kêu gọi tiến hành các hoạt động chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam…

Thứ hai, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân: Đây là hành biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… để kích động, xuyên tạc đánh vào tâm lý của nhân dân, tạo ra sự sợ hãi, tư tưởng cầu an hoặc bịa đặt, tung tin thất thiệt gây hoang mang, nghi ngờ trong nhân dân.

Thứ ba, làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý: Đây là hành vi biên soạn, in, viết, vẽ, cất giữ, cất giấu, phát ra, truyền ra rộng rãi, truyền miệng, phao tin, thông qua hội giảng, bài viết… và hành vi sử dụng những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc... đánh vào tâm lý của nhân dân như tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý của đài BBC; tuyên truyền lối sống hiện sinh, sống gấp; tuyên truyền các học thuyết tư sản, phản động…

Từ quy định của Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015 có thể rút ra một số vấn đề hạn chế sau đây:

Một là, các hành vi phạm tội về tuyên truyền chống nhà nước đã được quy định một cách thống nhất về cách thức, các nhóm hành vi phạm tội tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 được quy định giống nhau về các hành vi phạm tội và khác nhau về nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, việc tách thành 3 điểm a, b, c khoản 1 Điều 117 chỉ dựa vào nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội là không cần thiết. Đặc biệt nội dung thông tin, tài liệu, vật phẩm được sử dụng trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội ở điểm b và điểm c rất khó phân biệt trong thực tiễn áp dụng, nếu không muốn nói là trùng nhau. Bởi lẽ, việc gây chiến tranh tâm lý cũng là nhằm vào nhân dân, cũng là gây tâm lý sợ hãi, hoang mang trong nhân dân.

Hai là, qua công tác điều tra, truy tố, xét xử số đối tượng phạm tội này cho thấy, ngoài hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng còn có hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam chính là hành vi làm mất uy tín, làm suy yếu lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Tuyên truyền với nội dung chống Đảng thậm chí còn nguy hiểm hơn một số nội dung tuyên truyền được quy định tại Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc điều tra, xử lý số đối tượng phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, theo chúng tôi, việc Bộ luật Hình sự năm 2015 chỉ quy định về hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chưa có quy định nào về hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam là chưa đầy đủ. Vấn đề này gây khó khăn cho thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này.

Ba là, khoản 2 Điều 117 quy định “Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm”. Vậy hiểu thế nào là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng? Hành vi nào trong các hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được coi là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Vấn đề này cho đến nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật hình sự nào hướng dẫn một cách rõ ràng, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua nghiên cứu kỹ thuật lập pháp ở một số tội danh cùng nhóm xâm phạm an ninh quốc gia như “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”; “Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ”; “Tội bạo loạn”… cho thấy, trong cấu thành cơ bản (khung hình phạt nặng nhất) của các điều luật này đều có quy định trường hợp “Người tổ chức, người xúi dục, người hoạt động đắc lực hoặc gây hậu quả nghiêm trọng” là những yếu tố định khung. Như vậy, với cấu thành cơ bản (khung hình phạt nhẹ nhất) của Điều 117 là: “a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; c) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm gây chiến tranh tâm lý” thì tình tiết định khung tăng nặng “phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại khoản 2 Điều này cần được xác định là các trường hợp sau đây: Người tổ chức; người xúi dục; người hoạt động đắc lực; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

Từ những phân tích trên, mặc dù Bộ luật Hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành, nhưng để góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

Điều 117. Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung xuyên tạc, phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam, chính quyền nhân dân;

b) Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung bịa đặt, gây chiến tranh tâm lý, gây hoang mang trong nhân dân;

2. Người tổ chức; người xúi dục; người hoạt động đắc lực; phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 20 năm.

3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

ThS. Hoàng Duy Hiệp

Khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân


[1] Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[2] Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015. Bộ luật này sẽ chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2015.

[3] Xem Điều 117 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: