Thứ sáu 06/06/2025 15:47
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện khung pháp luật về tiền ảo tại Việt Nam

Tại nhiều quốc gia trên thế giới, tiền ảo đã được chấp nhận như một phương tiện để thanh toán và được thừa nhận là một sản phẩm dịch vụ, hàng hóa đặc biệt. Còn ở Việt Nam, tiền ảo có được xác định là tài sản hợp pháp, được quy định là một phương tiện thanh toán hay không? Trong bài viết, tác giả phân tích thực trạng pháp luật về vấn đề này, qua đó đưa ra một số gợi mở góp phần hoàn thiện pháp luật về tiền ảo tại Việt Nam trong thời gian tới.


Theo định nghĩa của Cơ quan Giám sát Ngân hàng châu Âu (EBA), tiền ảo (virtual currency) không phải một đơn vị tiền kỹ thuật số (digital money) do ngân hàng trung ương hoặc cơ quan công quyền phát hành, cũng không nhất thiết phải gắn liền với tiền pháp định[1]. Theo nhóm nghiên cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tiền ảo là đại diện số có giá trị do các nhà phát triển tư nhân phát hành và có đơn vị tính toán của riêng mình. Tiền ảo có thể chứa đựng, lưu trữ, truy cập và giao dịch điện tử, có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, miễn là các bên giao dịch đồng ý sử dụng chúng. Tiền ảo là một khái niệm rộng về các loại tiền tệ, từ chứng từ nợ của các nhà phát hành, đến các loại tiền ảo được bảo đảm bằng tài sản hay vàng, và các loại tiền mã hóa (crypto-currencies) như là Bitcoin[2]. Tiền ảo được nhóm, cộng đồng cụ thể chấp nhận làm phương tiện thanh toán và có thể chuyển nhượng, lưu trữ hoặc giao dịch điện tử.

1. Thực trạng pháp luật về tiền ảo

Về phương diện là phương tiện thanh toán, khoản 1 và khoản 2 Điều 17 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 quy định: Ngân hàng Nhà nước là cơ quan duy nhất phát hành tiền giấy, tiền kim loại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiền giấy, tiền kim loại do Ngân hàng Nhà nước phát hành là phương tiện thanh toán hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản 6 và khoản 7 Điều 4 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt, được sửa đổi, bổ sung năm 2016 (hiện nay đang được nghiên cứu thay thế) quy định: Phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng trong giao dịch thanh toán (sau đây gọi là phương tiện thanh toán), bao gồm: Séc, lệnh chi, ủy nhiệm chi, nhờ thu, ủy nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các phương tiện thanh toán khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; phương tiện thanh toán không hợp pháp là các phương tiện thanh toán không thuộc quy định tại khoản 6 Điều này. Đồng thời, khoản 6 Điều 6 Nghị định số 101/2012/NĐ-CP quy định về các hành vi bị cấm bao gồm: Phát hành, cung ứng và sử dụng các phương tiện thanh toán không hợp pháp.

Tại điểm h khoản 1 Điều 206 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây gây thiệt hại cho người khác về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm, trong đó bao gồm hành vi phát hành, cung ứng, sử dụng phương tiện thanh toán không hợp pháp, làm giả chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán; sử dụng chứng từ thanh toán, phương tiện thanh toán giả. Bên cạnh đó, nhận thức được những rủi ro, hệ lụy của Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác, tháng 02/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những cảnh báo về những rủi ro, nguy cơ đối với các hoạt động, giao dịch liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác, trong đó khẳng định quan điểm không công nhận Bitcoin và các loại tiền ảo khác là tiền hợp pháp và phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam[3]. Đồng thời, ngày 13/4/2018, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-NHNN về các biện pháp tăng cường kiểm soát các giao dịch, hoạt động liên quan đến tiền ảo, trong đó chỉ đạo cụ thể các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, dịch vụ trung gian thanh toán không được thực hiện các giao dịch trung gian thanh toán, giao dịch thẻ, cấp tín dụng qua thẻ, hỗ trợ xử lý, thanh toán, chuyển tiền, bù trừ và quyết toán, chuyển đổi tiền tệ, thực hiện giao dịch thanh toán, chuyển tiền qua biên giới liên quan tới giao dịch tiền ảo cho khách hàng do có thể phát sinh những rủi ro về rửa tiền, tài trợ khủng bố, gian lận, trốn thuế.

Từ các quy định nêu trên, việc sử dụng tiền ảo làm phương tiện thanh toán tại Việt Nam là hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định của pháp luật.

Về phương diện là một loại tài sản, qua rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan như Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Thương mại năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2017, 2019), Luật Chứng khoán năm 2019, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 và 2016), Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 và 2020), Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2014, 2016), Luật Phá sản năm 2014... thì chưa có quy định phân loại và định danh một cách dứt khoát, rõ ràng các loại tài sản mã hóa, trong đó có tiền ảo thuộc loại hình nào trong các khái niệm pháp lý như: Chứng khoán (khoản 1 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019), hàng hóa (khoản 2 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005), tài sản (khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015). Trong khi đó, cũng có quan điểm cho rằng, điểm mấu chốt mà thực tiễn đang đặt ra là các loại tài sản mã hóa đang tồn tại và lưu hành như Bitcoin và ETH cùng một số loại tài sản mã hóa khác có đích thực được xem là tài sản theo nghĩa pháp lý được quy định tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự năm 2015 hay không? Điều này sẽ làm cho việc áp dụng các quy định pháp luật hiện hành để điều chỉnh việc bảo hộ các quyền hoặc lợi ích của cá nhân trong việc nắm giữ, chuyển nhượng, để thừa kế, bị đánh cắp hoặc bị tước đoạt đối với các loại tài sản mã hóa - sản phẩm ứng dụng công nghệ của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trở nên không chắc chắn. Bên cạnh đó, việc thực hiện nghĩa vụ thuế phát sinh từ các giao dịch liên quan tới chuyển nhượng tài sản mã hóa cũng chưa được Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2013, 2014 và 2020), Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 (sửa đổi, bổ sung các năm 2012, 2014, 2016) đặt ra.

Thực tiễn này, dẫn đến vẫn còn sự nhầm lẫn giữa khái niệm tiền điện tử và khái niệm tiền ảo, gây nên nhiều khó khăn trong công tác quản lý nhà nước của các cơ quan có thẩm quyền. Vì vậy, cần có những quy định pháp luật để phân định rõ tiền điện tử với các hình thức khác vốn không được coi là phương tiện thanh toán hợp pháp.

2. Một số khó khăn, thách thức và gợi mở

2.1. Khó khăn, thách thức

Hiện nay, do còn thiếu nhiều quy định pháp luật về tài sản mã hóa, một số quy định chưa rõ ràng, nhận thức còn khác nhau nên đã phát sinh những vấn đề như: Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có cơ sở để đề xuất biện pháp phòng, chống, xử lý các vi phạm hành chính liên quan đến tài sản mã hóa. Bên cạnh đó, những vấn đề mới được đặt ra như công nghệ tài chính (Fintech), Dự án đồng Libra (Diem) của Facebook, sự phát triển của các đồng tiền kỹ thuật số do Ngân hàng Trung ương phát hành (CBDC) là thách thức không nhỏ trong việc quản lý của các cơ quan chức năng Việt Nam. Ngoài ra, công tác nghiên cứu nhằm đề xuất khuôn khổ pháp lý đối với các hoạt động liên quan đến tiền ảo đối mặt với một số khó khăn, thách thức như:

Một là, sự phức tạp về tiền ảo cũng như công nghệ nền tảng của tài sản mã hóa: Việc xây dựng khung pháp lý quản lý các hoạt động liên quan đến tài sản mã hóa đòi hỏi cơ quan xây dựng chính sách phải có hiểu biết sâu sắc về bản chất của tài sản mã hóa, cách thức hoạt động cũng như các lợi ích và rủi ro tiềm năng của chúng. Đây là một thách thức do tài sản mã hóa là sản phẩm mới, đòi hỏi sự hiểu biết nhất định về lĩnh vực công nghệ. Ngay bản thân việc định nghĩa thế nào là tài sản mã hóa, cả về thuật ngữ và nội hàm cũng chưa có sự thống nhất. Chính vì vậy, để hiểu được bản chất cũng như cách thức vận hành, giao dịch của tài sản mã hóa cần sự hiểu biết về công nghệ nền tảng, qua đó mới có thể xây dựng cơ chế quản lý, giám sát phù hợp.

Hai là, vấn đề nhân lực trong công tác nghiên cứu, trong thời gian vừa qua, Bộ Tài chính đang tập trung xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán năm 2019. Tuy công tác nghiên cứu, đánh giá về các hình thức, sản phẩm đầu tư mới và các xu thế phát triển trên thị trường chứng khoán và tài chính, trong đó có tài sản mã hóa cũng được quan tâm triển khai, song với khối lượng lớn công việc cần triển khai trong thời gian vừa qua cũng đặt ra bài toán khó về phân bổ nguồn lực triển khai công tác nghiên cứu, đặc biệt là đối với một số vấn đề phức tạp, đòi hỏi kiến thức chuyên sâu như tài sản mã hóa.

Ba là, phạm vi ảnh hưởng rộng lớn của tài sản mã hóa, tài sản mã hóa thực chất là một loại tài sản kỹ thuật số không được phát hành hoặc bảo đảm bởi Ngân hàng Trung ương hoặc cơ quan quản lý nhà nước nào khác, và/có thể được sử dụng như một phương tiện thanh toán và/hoặc vì mục đích đầu tư và/hoặc dùng để tiếp cận một hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó[4]. Như vậy, xuất phát từ Bitcoin và các đồng tiền tương tự có mục đích sử dụng như một phương tiện thanh toán, tài sản mã hóa giờ đây có thể được phát hành dưới dạng chứng khoán với mục đích huy động vốn hoặc dưới dạng xu tiện ích với mục đích đem lại cho người sở hữu khả năng tiếp cận và sử dụng một dịch vụ nhất định, hoặc thậm chí là một dạng kết hợp của các nhóm trên. Do vậy, tài sản mã hóa không chỉ tác động, ảnh hưởng đến một lĩnh vực của nền kinh tế mà còn đòi hỏi sự hợp tác, phối hợp của nhiều bộ, ngành và các cơ quan liên quan.

2.2. Gợi mở cho Việt Nam

Trên cơ sở những khó khăn, vướng mắc được đánh giá nêu trên, tác giả đưa ra một số gợi mở để hoàn thiện pháp luật về tiền ảo tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, về hoàn thiện hệ thống pháp luật, tác giả cho rằng, cần nghiên cứu, xây dựng nghị quyết của ủy ban Thường vụ Quốc hội về giải thích pháp luật để thống nhất xác định một số sản phẩm ứng dụng công nghệ kể trên (tài sản mã hóa hoặc tiền mã hóa) thuộc phạm trù tài sản theo nghĩa pháp lý mà Bộ luật Dân sự năm 2015 (khoản 1 Điều 105) đã quy định. Do tính chất đặc biệt của loại tài sản này cùng những rủi ro có thể đi kèm khi cho phép lưu hành rộng rãi, Nhà nước nên nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật để kiểm soát chặt chẽ việc phát hành hoặc giao dịch loại tài sản này (bằng cách đặt ra các điều kiện để một người hoặc một tổ chức có thể tham gia thị trường giao dịch tiền mã hóa, những cá nhân, tổ chức không được phép tham gia, việc tổ chức các sàn giao dịch và các biện pháp chế tài xử lý chủ thể có hành vi vi phạm). Ngoài ra, cần nghiên cứu, trình cơ quan có thẩm quyền xem xét ban hành một số văn bản như: (i) Văn bản về huy động vốn qua phát hành tài sản mã hóa (ICO/ITO hay STO) và quản lý sàn giao dịch tài sản mã hóa là chứng khoán[5] theo chuẩn mực, thông lệ quốc tế và yêu cầu của thực tiễn, trong đó cần tập trung nghiên cứu các quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý, cấp phép, giám sát, thanh tra đối với các nhà cung ứng dịch vụ tài sản ảo, tiền ảo (tài sản mã hóa, tiền mã hóa); các chế tài xử phạt đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ tài sản ảo, tiền ảo (tài sản mã hóa, tiền mã hóa) không được cấp phép hoặc không đăng ký, không tuân thủ các biện pháp phòng, chống rửa tiền, tài trợ khủng bố… trình Chính phủ trong năm 2021; triển khai các biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn giao dịch của các sàn giao dịch tài sản mã hóa, tiền mã hóa; (ii) Xây dựng Luật Giao dịch điện tử (sửa đổi), trong đó tập trung sửa đổi các quy định liên quan đến giao dịch điện tử trong Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.

Thứ hai, về tổ chức thi hành các quy định của pháp luật, trong đó, đặc biệt tập trung vào thực hiện các nhiệm vụ chính như: (i) Tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân, đặc biệt là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, về tài sản mã hóa, các phương thức thủ đoạn hoạt động phạm tội liên quan đến tài sản mã hóa, tiền mã hóa để có biện pháp phòng tránh; đồng thời, tăng cường cảnh báo về những rủi ro, nguy cơ và hệ lụy của việc tham gia mua bán, giao dịch, đầu tư, kinh doanh tài sản mã hóa bất hợp pháp và sử dụng tài sản mã hóa cho hoạt động tội phạm (rửa tiền, tài trợ khủng bố, chuyển tiền bất hợp pháp, trốn thuế, lừa đảo…); (ii) Đẩy mạnh triển khai Chương trình khoa học và công nghệ cấp quốc gia hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trong đó, tăng cường hỗ trợ việc nghiên cứu và ứng dụng công nghệ blockchain để tạo ra các sản phẩm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh; (iii) Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tích cực, thường xuyên phối hợp chặt chẽ công tác nghiên cứu, xây dựng khung pháp lý và quản lý, giám sát các hoạt động liên quan đến tài sản mã hóa, tiền mã hóa; đồng thời, chủ động nghiên cứu, đánh giá các tiềm năng của công nghệ blockchain để triển khai các ứng dụng cụ thể phục vụ công tác quản lý nhà nước của mình.

Thứ ba, nghiên cứu, theo dõi diễn biến việc ứng dụng công nghệ blockchain của ngân hàng trung ương các nước, nhất là việc phát hành tiền kỹ thuật số của một số ngân hàng trung ương và sự phát triển của các đồng tiền ổn định (stablecoin - như dự án đồng Libra (Diem) của Facebook) để đề xuất giải pháp phù hợp. Đặc biệt, huy động và khuyến khích các tổ chức nghiên cứu (trường đại học, các viện nghiên cứu) cùng tổ chức đào tạo và nghiên cứu các vấn đề liên quan công nghệ blockchain.

Trần Thị Thu Hằng
Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp


[3]. Thể hiện tại Thông cáo báo chí ngày 27/02/2014, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã yêu cầu các tổ chức tín dụng không được phép sử dụng Bitcoin (và các loại tiền ảo tương tự khác) như một loại tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán khi cung ứng dịch vụ cho khách hàng; đồng thời, cảnh báo, khuyến cáo các tổ chức, cá nhân cần thận trọng và không nên đầu tư, nắm giữ, tham gia thực hiện các giao dịch liên quan đến Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác.

[4]. Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 của Bộ Tư pháp về việc rà soát, đánh giá toàn diện thực trạng pháp luật, thực tiễn về tài sản ảo, tiền ảo ở Việt Nam và quốc tế; nhận diện, đề xuất các định hướng hoàn thiện, tr. 114.

[5]. Nhiệm vụ này được Thủ tướng Chính phủ giao tại Quyết định số 1255/QĐ-TTg ngày 21/8/2017 phê duyệt Đề án Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo (Mục II.3 của Điều 1) và Văn bản số 11633/VPCP-KTTH ngày 29/11/2018 (Mục 1.a), Văn bản số 9721/VPCP-KTTH ngày 25/10/2019 của Văn phòng Chính phủ về việc lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về tài sản ảo, tiền ảo; Quyết định số 242/QĐ-TTg ngày 28/02/2019 phê duyệt Đề án “Cơ cấu lại thị trường chứng khoán và thị trường bảo hiểm đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025” (Mục 1.i Điều 1 Quyết định; Mục B.I.1, B.I.3.a, B.I.5.a Đề án). Các chính sách cơ bản của 02 vấn đề này đã được phân tích chi tiết tại điểm 2.2 và 2.3 Mục II.2 Phần 4 Báo cáo số 255/BC-BTP ngày 29/10/2018 của Bộ Tư pháp.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Tiếp tục hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm