Thứ ba 10/06/2025 12:19
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp

Bài viết phân tích thực trạng pháp luật về phá sản doanh nghiệp, đồng thời, chỉ ra những vướng mắc, bất cập và đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về phá sản trong thời gian tới.

Luật Phá sản năm 2014 được ban hành đã tạo ra khung pháp lý vững chắc cho việc phá sản các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các quy định pháp luật trong lĩnh vực này vẫn còn tồn tại một số bất cập, gây nhiều khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp cũng như các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc giải quyết thủ tục phá sản, nhất là trong tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam có nhiều biến động, xuất hiện các quan hệ xã hội mới và những điều kiện làm thay đổi các quan hệ xã hội liên quan đến quá trình giải quyết phá sản của doanh nghiệp. Đặc biệt, sau đại dịch Covid-19, tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam gặp những khó khăn và nguy cơ mất khả năng thanh toán xảy ra ngày càng nhiều. Do vậy, đặt ra vấn đề cần phải có giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết thủ tục phá sản trong thực tiễn.

1. Một số bất cập trong quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 thì: “Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán”. Đây là điều kiện phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Trong bối cảnh các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn về mọi mặt, đặc biệt là do hậu quả của đại dịch Covid-19 gây ra thì việc mất khả năng thanh toán và làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là điều tất yếu.

Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 chưa dự liệu được các quan hệ xã hội phát sinh có liên quan đến hoạt động và khả năng tài chính của các chủ thể kinh doanh nói chung khi xảy ra các tình huống đặc biệt như thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố… Thực tế cho thấy, trong khoảng thời gian không dài kể từ khi đại dịch Covid-19 xảy ra, các doanh nghiệp, hợp tác xã, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã gặp rất nhiều khó khăn và ảnh hưởng đến khả năng thanh toán các khoản nợ. Với tinh thần của Luật Phá sản năm 2014, nếu người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không nộp đơn thì người có nghĩa vụ vẫn phải nộp đơn. Vì vậy, khả năng các doanh nghiệp phải chịu thêm áp lực, chấp nhận để doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản là rất lớn. Việc nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản hàng loạt sẽ khiến Tòa án khó tránh khỏi tình trạng quá tải, không chỉ để giải quyết các vụ việc phá sản mà còn phải giải quyết các vụ án, vụ việc bị tồn đọng do phải thi hành các quyết định áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế hậu quả lây lan của dịch bệnh.

Như vậy, rõ ràng, việc tuyên bố doanh nghiệp phá sản trong hoàn cảnh này về mặt pháp lý không sai nhưng chưa thể hiện được mục đích và tính nhân văn, hợp lý của pháp luật, chưa phản ánh đúng bản chất của pháp luật về phá sản doanh nghiệp.

Thứ hai, tài sản phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 chỉ bị giới hạn về thời gian (khối tài sản phá sản tính đến thời điểm mở thủ tục và những tài sản phát sinh trong quá trình giải quyết phá sản); không bị giới hạn bởi không gian tài sản tồn tại, loại hình tài sản, nguồn hình thành tài sản và các danh mục loại trừ. Tư duy pháp lý này làm cho nhiệm vụ quản lý, phân chia tài sản phá sản của doanh nghiệp phá sản bị thiếu tính chính xác, không công bằng cho các chủ thể tham gia thanh lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.

Về phạm vi lãnh thổ của tài sản, tuy Điều 64 Luật Phá sản năm 2014 không quy định rõ về nguyên tắc đối với trường hợp tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt Nam nhưng theo quy định tại Điều 117 về ủy thác tư pháp của Tòa án Việt Nam đối với cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài, có thể hiểu là, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, đối với tài sản không nằm trên lãnh thổ Việt Nam, Tòa án thực hiện ủy thác tư pháp theo hiệp định tương trợ tư pháp mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có đi có lại.

Thứ ba, Luật Phá sản năm 2014 quy định về quyền đề nghị được thương lượng của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và chủ nợ để được rút đơn. Điều này đồng nghĩa với việc Tòa án phải luôn chấp nhận cho sự yêu cầu được thương lượng của các bên, tuy nhiên có phải trong mọi trường hợp, thỏa thuận rút đơn đều được chấp nhận hay không? Rõ ràng, Luật Phá sản năm 2014 đã cho phép các bên quyền thương lượng về việc rút đơn nhưng lại quy định phải đề nghị Tòa án để được rút đơn là chưa hợp lý.

Thứ tư, sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án sẽ xem xét tính hợp lệ của đơn. Trên thực tế, ngoài những quy định về nội dung và hình thức của đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2014 thì một số Tòa án có những hình thức khác nhau để giải quyết đơn yêu cầu như trong đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có ký tên, điểm chỉ của người yêu cầu (đối với đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản gồm nhiều trang, người yêu cầu phải ký tên, điểm chỉ từng trang).

Sau khi hoàn thành đầy đủ các thủ tục thì Tòa án sẽ tiếp tục các quy trình tiếp theo giải quyết phá sản. Theo quy định của pháp luật hiện hành, trình tự, thủ tục để yêu cầu mở thủ tục phá sản vốn rất phức tạp thì trên thực tế hiện nay, còn cần phải đáp ứng được những hình thức mà các Tòa đưa ra mới có thể tiếp tục được quy trình.

Ngoài ra, theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, ngoài việc xem xét đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hợp lệ thì còn phải có chứng cứ chứng minh các khoản nợ đến hạn kèm theo. Hay nói cách khác, chủ nợ phải chứng minh được doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Trên thực tế, để chứng minh doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không phải là điều dễ dàng, nhất là khi các khoản nợ không phải xuất phát từ các hợp đồng vay, mượn về tài chính mà xuất phát từ khả năng thực hiện thanh toán các hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ.

2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về phá sản doanh nghiệp

Thứ nhất, cần ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung điều khoản quy định về điều kiện mất khả năng thanh toán. Theo đó, ngoài quy định về trường hợp được xem là mất khả năng thanh toán theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, cần quy định thêm về mất khả năng thanh toán trong trường hợp đặc biệt (thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, khủng bố…), thời gian 03 tháng sẽ được tính từ ngày đầu tiên sau khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền tuyên bố kết thúc tình huống đặc biệt đó.

Thứ hai, Luật Phá sản năm 2014 khi liệt kê các loại tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán tại Điều 64 nên ghi rõ ràng tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ để các cơ chức năng cũng như những cá nhân có thẩm quyền dễ hiểu, tránh gây suy đoán dẫn đến nhầm lẫn, áp dụng không đúng các quy định của pháp luật.

Thứ ba, cần quy định theo hướng, trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày doanh nghiệp, hợp tác xã nhận được thông báo bị nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán có quyền thương lượng với chủ nợ nộp đơn về việc rút đơn không cần phải có văn bản đề nghị được thương lượng gửi cho Tòa án và sau khi thương lượng, các bên có nghĩa vụ gửi kết quả thương lượng về cho Tòa án trong thời hạn 03 ngày, kể từ ngày kết thúc việc thương lượng. Như vậy, sẽ tạo cho các bên chủ động hơn trong việc tiến hành thương lượng, hạn chế chi phí và thời gian. Bên cạnh đó, Luật Phá sản cũng cần quy định rõ hơn thế nào là thỏa thuận trái với quy định của pháp luật về phá sản và hậu quả pháp lý của từng hành vi đó nhằm tạo thuận lợi trong áp dụng, khẳng định việc thỏa thuận, thương lượng rút đơn là quyền nhưng không phải mọi thỏa thuận, thương lượng rút đơn đều được chấp nhận. Tòa án vẫn là chủ thể quyết định cuối cùng sau khi xem xét kết quả thương lượng được các bên gửi đến.

Thứ tư, cần xác định rõ như thế nào là một khoản nợ trong thủ tục phá sản. Theo quan điểm của tác giả, khoản nợ không chỉ là những khoản tiền, tài sản theo các hợp đồng vay, mượn tài sản. Đối với một thương nhân hoạt động thương mại, việc giao kết và thực hiện nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ là việc thường xuyên phải thực hiện. Luật Phá sản năm 2014 không xem khoản tiền chậm thanh toán là một món nợ để làm cơ sở nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà đó chỉ là một hành vi vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ của các bên. Do vậy, trường hợp này, các bên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng và yêu cầu bên còn lại thanh toán. Tuy nhiên, sau khi có bản án xác định khoản nợ và thời hạn thanh toán cho bên bị vi phạm, thì liệu nội dung bản án có được xem là giấy xác nhận nợ của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán hay không? Nếu chưa có bản án giải quyết tranh chấp về chậm thanh toán thì việc Tòa án trả lại đơn là hoàn toàn phù hợp. Tuy nhiên, nếu như tranh chấp trên đã được giải quyết bằng một vụ án đã có hiệu lực pháp luật và chuyển qua cơ quan thi hành án thì cần phải xem bản án như là một minh chứng cho khoản nợ không có bảo đảm.

ThS. Nguyễn Văn Nam

Viện Nghiên cứu pháp luật phía Nam

ThS. Võ Vinh Hiền

Thanh tra Thành phố Hồ Chí Minh

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 386), tháng 8/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm