Thứ ba 10/06/2025 12:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và một số kiến nghị hoàn thiện

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là chế định quan trọng của Luật Thương mại và là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại được quy định trong Chương 5 Luật Thương mại.

Hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là chế định quan trọng của Luật Thương mại và là một trong bốn hoạt động trung gian thương mại được quy định trong Chương 5 Luật Thương mại. Ủy thác mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên nhận uỷ thác thực hiện công việc mua bán hàng hoá với danh nghĩa của mình theo những điều kiện đã thoả thuận với bên uỷ thác và được nhận thù lao uỷ thác (Điều 155).

Ủy thác mua bán hàng hóa có lịch sử hình thành khá sớm, khởi nguồn là uỷ thác trong thương mại hàng hải. Khoảng thế kỷ XIII, do nhu cầu của việc mở rộng quy mô và cường độ buôn bán hàng hoá của thương nhân từ nước này sang nước khác qua đường biển, thương nhân thay vì theo hàng hoá giao tại cảng đến, họ uỷ thác cho các thương nhân khác thực hiện công việc đó thay mình và trả thù lao.

Ở Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, uỷ thác khẳng định vai trò và ý nghĩa của nó chủ yếu trong hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, uỷ thác được tìm thấy trong nhiều lĩnh vực thương mại và là giải pháp lý tưởng cho các thương nhân không muốn mất chi phí vào việc mua bán hàng hoá hay đầu tư mà không đem lại hiệu quả.

Như vậy, uỷ thác đặt ra khi một người hay một tổ chức, pháp nhân không có đủ điều kiện cần thiết (năng lực pháp lý, khả năng tài chính, nguồn nhân lực...) để thực hiện một số hoạt động thương mại - họ cần một thương nhân có năng lực thực tế, sự chuyên nghiệp và hiệu quả để thay họ làm việc đó.

Với 11 điều (từ Điều 155 đến Điều 165), các quy định pháp luật về hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa có thể coi là hành lang pháp lý cần thiết cho các giao dịch ủy thác mua bán hàng hóa được đảm bảo thực hiện trong thực tiễn. Tuy nhiên, chế định này chưa được quy định tương xứng với vị trí, vai trò của nó và đòi hỏi của thực tiễn kinh doanh, khi được thực hiện nó bộc lộ nhiều hạn chế như: Mâu thuẫn giữa quy định của Luật Thương mại và Bộ luật Dân sự, phạm vi ủy thác giới hạn, thiếu nhiều quy định cần thiết liên quan đến phân chia lợi nhuận chênh lệch phát sinh từ hoạt động ủy thác hay xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận... Quá trình nghiên cứu, khảo sát các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam từ năm 2005 đến 2009 cho thấy, có nhiều tranh chấp về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong đó có nguyên nhân từ những hạn chế này(1). Những bất cập của pháp luật thực định và thực trạng thực thi pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cho thấy, sự đòi hỏi khách quan phải hoàn thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam trong tính toàn diện và đa chiều, trong đó có pháp luật thực định. Hướng đến hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, chúng tôi xin đề xuất một số kiến nghị sau đây:

1. Ghi nhận chế định hợp đồng đối với các hoạt động trung gian thương mại và phân định rõ ràng thuật ngữ ủy thác trong Luật Thương mại

Chưa bao giờ ủy thác mua bán hàng hóa trở nên quan trọng và phổ biến trong thực tiễn kinh doanh như hiện nay, đặc biệt đối với mua bán hàng hóa quốc tế. Vì những lý do nào đó, khi một cá nhân, tổ chức hay pháp nhân không thể thực hiện mua bán hàng hóa bằng năng lực của chính mình, khi đó họ phải thông qua một thương nhân có năng lực thực tế để làm việc đó - thương nhân nhận uỷ thác.

Về bản chất, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa là một giao dịch đặc thù của giao dịch dân sự trong thương mại. Bộ luật Dân sự sử dụng thuật ngữ giao dịch dân sự hay hợp đồng dân sự để chỉ các hoạt động trong giao lưu dân sự, trong khi Luật Thương mại sử dụng thuật ngữ hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa. Khi nghiên cứu chế định này có thể nhận thấy, hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa thể hiện đầy đủ các yếu tố của một giao dịch thương mại và là một trong những giao dịch thương mại chủ yếu, quan trọng, cơ sở pháp lý cho hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa được thực hiện nhưng không được quy định là giao dịch hay hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại. Hơn thế, các điều luật trong chế định hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa về thực chất, phản ánh những yếu tố của các điều khoản hợp đồng. Rõ ràng, có sự mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức thể hiện của chế định. Hơn nữa, Luật Thương mại sử dụng thuật ngữ uỷ thác trong khi Bộ luật Dân sự dùng thuật ngữ uỷ quyền mà chưa có sự phân định rõ ràng. Tại sao Luật Thương mại không sử dụng thuật ngữ uỷ quyền mua bán hàng hóa thống nhất với Bộ luật Dân sự? Tuy bản chất của uỷ quyền trong dân sự khác uỷ thác trong thương mại ở tư cách pháp lý của người thụ uỷ khi thực hiện nghĩa vụ uỷ nhiệm, nhân danh người chủ uỷ (trong uỷ quyền) và nhân danh chính người thụ uỷ (trong uỷ thác). Tuy nhiên, về phương diện thuật ngữ cần có sự phân định rõ ràng giữa thuật ngữ uỷ thác trong thương mại và uỷ quyền trong dân sự để có một sự thống nhất chung trong hệ thống pháp luật. Đây không chỉ là vấn đề mang tính học thuật về một thuật ngữ trong khoa học pháp lý, mà còn là yêu cầu khách quan về sự phù hợp và thống nhất của hệ thống pháp luật.

Do vậy, cần sửa chế định hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa và các hoạt động trung gian thương mại khác thành hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa, hợp đồng đại diện cho thương nhân, hợp đồng môi giới thương mại, hợp đồng đại lý thương mại; phân định rõ thuật ngữ ủy thác trong Luật Thương mại trong tính thống nhất với thuật ngữ ủy quyền trong Bộ luật Dân sự.

2. Quy định nhận uỷ thác của nhiều bên chỉ trong trường hợp hợp đồng không có thỏa thuận khác

Nguyên tắc thiện chí được coi là một trong những nguyên tắc nền tảng khi xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự được Bộ luật Dân sự quy định và là điều kiện căn bản để các bên giao kết và thực hiện hợp đồng. Sẽ không thể hình thành cam kết hay thoả thuận nếu không có thiện chí hay biểu hiện của thiện chí ở bất cứ giai đoạn nào của cam kết hay thoả thuận. Tuân thủ nguyên tắc là yêu cầu và không có ngoại lệ. Song giữa nguyên tắc chung và các quy định cụ thể của Luật Thương mại lại không thống nhất.

Thiện chí là yêu cầu đòi hỏi tinh thần hợp tác giữa các bên khi tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ hợp đồng. Theo đó, mỗi bên không chỉ quan tâm đến quyền và lợi ích của mình, mà còn phải quan tâm đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể phía bên kia. Thiện chí cũng biểu hiện ở việc tìm kiếm các biện pháp cần thiết để khắc phục và hạn chế thiệt hại khi nghĩa vụ hợp đồng có thể bị vi phạm. Như vậy, về nguyên tắc, nếu việc thực hiện quyền pháp lý của một bên chủ thể có khả năng gây thiệt hại cho chủ thể phía bên kia hoặc ảnh hưởng đến quan hệ hợp đồng, thì hành vi đó phải được loại trừ.

Điều 161 Luật Thương mại quy định: “Bên nhận uỷ thác có thể nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau”. Trong thực tế, nếu bên nhận uỷ thác nhận uỷ thác bán hàng cho nhiều bên uỷ thác mà hàng hoá nhận uỷ thác cùng chủng loại, cùng tính năng sử dụng thì trong một chừng mực, đã vi phạm yêu cầu của nguyên tắc thiện chí.

Sẽ không thể coi là thiện chí thực hiện hợp đồng khi đang trong quá trình thực hiện hợp đồng với một bên, bên nhận uỷ thác nhận uỷ thác một chủng loại hàng tương tự của một đơn vị khác, dẫn đến khả năng không thể thực hiện đúng cam kết, vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đã ký kết hoặc gây áp lực tăng phí uỷ thác. Ví dụ, công ty A ký kết hợp đồng ủy thác xuất khẩu cà phê cho doanh nghiệp B. Đang trong thời gian thực hiện hợp đồng, công ty A nhận được một chào hàng xuất khẩu cà phê hấp dẫn từ một doanh nghiệp khác. Họ đã lập tức ký tiếp hợp đồng với doanh nghiệp này và ưu tiên bán hàng cho đối tác mới. Do lượng cà phê ủy thác bán chậm, không thu hồi được vốn, doanh nghiệp B qua tìm hiểu mới biết sự việc trên. Bức xúc nhưng không thể khởi kiện do Điều 161 Luật Thương mại quy định: “Bên nhận uỷ thác có thể nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau”, doanh nghiệp B chỉ còn biết chấp nhận thua thiệt.

Rõ ràng, với quy định này, Luật Thương mại đã trở thành rào cản cho hoạt động ủy thác mua bán hàng hóa. Như vậy, Điều 161 nên bổ sung “bên nhận uỷ thác có thể nhận uỷ thác mua bán hàng hoá của nhiều bên uỷ thác khác nhau nếu hợp đồng không có thoả thuận khác”.

3. Quy định rõ về việc phân chia lợi nhuận chênh lệch phát sinh

Đó là trường hợp bên nhận uỷ thác ký hợp đồng với khách hàng theo những điều kiện thuận lợi hơn so với các điều kiện do bên uỷ thác đặt ra (bán hàng với giá cao hơn hoặc mua hàng với giá thấp hơn giá bên uỷ thác chỉ định) nhưng Luật Thương mại chưa có quy định cụ thể. Thông thường, các bên có thể thoả thuận để phân chia khoản chênh lệch đó, tuy nhiên, đối với những khoản lợi nhuận có giá trị lớn hoặc trường hợp bên nhận uỷ thác mua hàng với giá cao hơn hoặc bán hàng với giá thấp hơn giá bên uỷ thác yêu cầu thì thoả thuận khó có thể đạt được, đặc biệt trường hợp uỷ thác vụ việc. Luật Thương mại nên có quy định cụ thể về vấn đề này.

Điều 554 Luật Thương mại Nhật Bản quy định: “Trường hợp người đại diện uỷ nhiệm đã bán hàng với giá thấp hơn hoặc mua hàng với giá cao hơn giá người chủ uỷ đã chỉ định, thì người đại diện uỷ nhiệm phải tự mình chịu khoản chênh lệch đó và người chủ uỷ phải chấp nhận điều này”(2).

Với quy định này, Luật Thương mại Nhật Bản đã xác định rõ trách nhiệm của bên đại diện ủy nhiệm đối với khoản chênh lệch phát sinh ngoài cam kết hợp đồng. Trong tiến trình cải cách và hoàn thiện pháp luật thực định, những bổ sung, sửa đổi theo hướng đó là thực sự cần thiết.

Như vậy, lợi nhuận chênh lệch phát sinh không chỉ trong trường hợp bên nhận uỷ thác ký hợp đồng với khách hàng theo những điều kiện kém thuận lợi hơn, mà cả trong trường hợp thuận lợi hơn so với các điều kiện do bên uỷ thác đặt ra cũng cần được dự liệu.

4. Quy định rõ về xử lý hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận

Trong thực tế, hàng hoá được uỷ thác mua đã sẵn sàng giao nhận theo yêu cầu của bên uỷ thác nhưng người chủ uỷ, vì nhiều lý do khác nhau, không tiếp nhận hàng hoá được uỷ thác mặc dù người nhận uỷ thác, trong quá trình thực hiện hợp đồng, đã thực hiện theo các chỉ dẫn và đã nhận thù lao uỷ thác. Điều này có thể dẫn đến nhiều rắc rối cho người nhận uỷ thác trong việc giải phóng hàng và thanh lý hợp đồng (thời hạn cập cảng, phí thuê tàu, địa điểm và phí lưu kho...). Đây cũng là những đòi hỏi bức thiết cần có quy định cụ thể của pháp luật xử lý trường hợp hàng hoá uỷ thác mua không được tiếp nhận.

Điều 556 Luật Thương mại Nhật Bản quy định: “Khi người chủ uỷ không tiếp nhận hàng hoá được uỷ thác mặc dù người đại diện uỷ nhiệm đã thực hiện các chỉ dẫn và đã nhận thù lao, khi đó người đại diện uỷ nhiệm có thể ký gửi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc bán đấu giá trực tiếp hàng hoá đó và cất đi riêng khoản lợi nhuận chênh lệch từ giá mua với giá đã bán đấu giá”(3).

Với quy định này, Luật Thương mại Nhật Bản đã xác định rõ cách thức xử lý hàng hóa ủy thác không được tiếp nhận. Điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc ràng buộc trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đã cam kết đối với các chủ thể quan hệ hợp đồng, mà còn có ý nghĩa như chế tài trong trường hợp nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm.

Luật Thương mại Việt Nam cần có quy định cụ thể đối với hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận trong trường hợp này. Hàng hoá uỷ thác không được tiếp nhận có thể được xử lý theo hướng ký gửi tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền (hải quan, kho bãi hợp pháp) hoặc bán trực tiếp hoặc đấu giá hàng hoá đó và khoản lợi nhuận chênh lệch từ giá mua với giá đã bán trực tiếp hoặc đấu giá thuộc về người nhận uỷ thác trong trường hợp này.

5. Mở rộng phạm vi uỷ thác đối với các công việc khác ngoài mua bán hàng hóa

Trong thực tiễn, có rất nhiều các hoạt động uỷ thác như, ủy thác đầu tư tài chính, uỷ thác đầu tư xây dựng, uỷ thác cho vay tín dụng, uỷ thác cho thuê tài sản... là các hoạt động thương mại quan trọng và phổ biến song lại chưa được quy định trong Luật Thương mại. Luật Thương mại chỉ quy định uỷ thác trong lĩnh vực mua bán hàng hóa. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, nhiều nước quy định đại diện đối với cả các lĩnh vực ngoài mua bán hàng hóa. Hướng tới hoàn thiện chế định hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại, đây cũng là điểm quan trọng cần sửa đổi, bổ sung.

Câu hỏi đặt ra là Luật Thương mại chỉ quy định về ủy thác mua bán hàng hóa, vậy trong thực tế các hình thức uỷ thác đầu tư hoặc uỷ thác cho vay được pháp luật điều chỉnh như thế nào? Hoặc liệu uỷ thác cho vay tín dụng có được áp dụng như cho vay tín dụng thông thường?

Ví dụ: Tổ chức tài chính A cho vay đối với một doanh nghiệp B, thủ tục giấy tờ và hợp đồng tín dụng đã ký kết. Giải ngân được một phần (do cần đầu tư cho một khoản vay khác hoặc khoản vay vượt quá khả năng của quỹ lưu động...), sau đó tổ chức này mời một tổ chức tài chính C khác tham gia dưới hình thức ký kết hợp đồng ủy thác.

Thực chất, đây là một quan hệ uỷ thác trong lĩnh vực tín dụng. Tổ chức tài chính A không đủ khả năng cung cấp khoản vay cho doanh nghiệp B, do đó mời tổ chức tài chính C tham gia vào quan hệ này. Theo quy định của pháp luật về uỷ thác, trong quan hệ với B, A là bên cho vay, là chủ nợ và được hưởng lãi suất tiền vay từ B; trong quan hệ với C, A là bên uỷ thác; C tham gia với tư cách là bên nhận uỷ thác cho vay tín dụng và được nhận phí uỷ thác từ A. Quan hệ ba bên trong trường hợp này cấu thành đầy đủ đặc điểm bản chất của uỷ thác. Tuy nhiên, đầu tư hay cho vay tín dụng không được quy định cụ thể hay dẫn chiếu trong Luật Thương mại.

Trong thực tế, bản chất của các hành vi đầu tư, cho vay tín dụng và mua bán hàng hoá là hoàn toàn khác nhau. Vì thế, uỷ thác đầu tư hay cho vay tín dụng không đồng nhất với ủy thác mua bán hàng hóa. Do vậy, không thể mượn hình thức ủy thác mua bán hàng hóa áp dụng cho vay tín dụng hay uỷ thác đầu tư. Yêu cầu có quy định hoặc chỉ dẫn áp dụng pháp luật đối với những trường hợp tương tự trong Luật Thương mại là vô cùng cần thiết.

Luật Thương mại Nhật Bản quy định: “Quy định của chương áp dụng với các trường hợp uỷ quyền thực hiện các công việc khác ngoài mua bán hàng hoá” (Điều 558) hay cụm từ “áp dụng với sửa đổi thích hợp về chi tiết” (Điều 556).

Như vậy, chỉ với quy định hoặc chỉ dẫn cần thiết, các hình thức uỷ thác như đầu tư, cho vay hay ủy thác trong các lĩnh vực khác đều có thể được điều chỉnh với các sửa đổi phù hợp với từng lĩnh vực chuyên biệt (đầu tư, tín dụng, ngân hàng...).

Với phạm vi uỷ thác quy định như hiện nay trong Luật Thương mại, các chủ thể, trong hoạt động thương mại, muốn sử dụng uỷ thác như một hành vi kinh doanh (uỷ thác đầu tư xây dựng, uỷ thác cho vay tín dụng, uỷ thác cho thuê tài sản...) sẽ không có hình thức pháp lý phù hợp. Khi hoàn thiện Luật Thương mại năm 2005, chế định hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa cần mở rộng phạm vi áp dụng theo hướng áp dụng các quy định của ủy thác với các trường hợp uỷ thác thực hiện các công việc khác ngoài mua bán hàng hoá với sửa đổi phù hợp về chi tiết. Đây là hướng sửa đổi, bổ sung thực sự cần thiết, bởi thực tiễn ngày càng khẳng định vai trò của uỷ thác và các hình thức tồn tại đa dạng, phổ biến của uỷ thác trong thương mại.

Tài liệu tham khảo:

(1). Toà án nhân dân thành phố Hà Nội (2008, 2009), các bản án, quyết định xét xử tranh chấp về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa; Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (2005, 2009), các quyết định xét xử tranh chấp về hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa.

(2). Tuyển tập Luật Thương mại & Luật những ngoại lệ và kiểm soát của Nhật Bản (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

(3). Tuyển tập Luật Thương mại & Luật những ngoại lệ và kiểm soát của Nhật Bản (1994), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Nguyễn Thị Thu Huyền

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm