Thứ sáu 20/06/2025 18:16
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hủy giấy chứng nhận kết hôn có coi là hủy hôn nhân trái pháp luật không?

Kết hôn là một trong những quyền cơ bản của công dân được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ theo quy định pháp luật. Theo Điều 39 Bộ luật Dân sự quy định quyền kết hôn của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ theo các quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Công dân khi đăng ký kết hôn phải tuân thủ các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình; trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Cụ thể như sau:

Thẩm quyền đăng ký kết hôn: Theo khoản 1 Điều 17 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ thực hiện việc đăng ký kết hôn.

Thủ tục đăng ký kết hôn: Khoản 1 Điều 18 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định khi đăng ký kết hôn hai bên phải nộp tờ khai đăng ký kết hôn hoặc giấy xác nhận tình trạng hôn nhân (theo mẫu quy định) và xuất trình giấy chứng minh nhân dân.

Nếu một người cư trú tại xã, phường, thị trấn này, nhưng đăng ký kết hôn tại xã phường thị trấn khác, phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với người đang trong thời hạn công tác, học tập, lao động ở nước ngoài về nước đăng ký kết hôn phải có xác nhận của cơ quan ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam tại nước sở tại về tình trạng hôn nhân của người đó.

Đối với cán bộ, chiến sỹ đang công tác trong lực lượng vũ trang thì phải có xác nhận của Thủ trưởng đơn vị.

- Thời hạn đăng ký kết hôn: Theo quy định tại Nghị định số 06/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về hộ tịch, hôn nhân gia đình và chứng thực thì thời gian đăng ký kết hôn được rút ngắn từ 5 ngày xuống còn 3 ngày.

Trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký kết hôn cho hai bên nam, nữ. Trong trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

Trường hợp khi đăng ký kết hôn nếu hai bên nam, nữ không tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn và vi phạm các quy định về đăng ký kết hôn thì người đi đăng ký kết hôn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tư pháp. Đối với những trường hợp đăng ký kết hôn vi phạm quy định về trình tự, thủ tục như trên thì tại điểm k, khoản 1, Điều 78 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ đăng ký và quản lý hộ tịch quy định: Ủy ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền ra quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy tờ hộ tịch do Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trái quy định.

Thực tiễn thi hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP trên địa bàn thành phố Hà Nội có trường hợp Ủy ban nhân dân cấp huyện phải ra quyết định thu hồi, huỷ bỏ giấy chứng nhận kết hôn do vi phạm về trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn, dẫn đến việc khiếu kiện của người liên quan và một số quan điểm khác nhau về hậu quả pháp lý của việc huỷ giấy chứng nhận kết hôn trái pháp luật, xin nêu ví dụ thực tiễn như sau:

Ông Lê Xuân T 69 tuổi, thường trú tại số 6 phố Lê Thánh Tông, phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội kết hôn cùng bà Nguyễn Thị D 31 tuổi, thường trú tại Đội 6, thôn Hạ, xã Phù Lưu Tế, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Sau khi kết hôn được 6 ngày thì ông T qua đời, để lại khối tài sản gồm: 2 ngôi nhà biệt thự tại trung tâm thành phố Hà Nội cùng nhiều tài sản có giá trị khác. Ngày 12/02/2009, bà Lê Thị Tú N (con gái ông Lê Xuân T) gửi đơn khiếu kiện đề nghị Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn giữa ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D vì thiếu thủ tục khi đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế đăng ký ngày 27/01/2007. Sau khi có đơn kiếu kiện Phòng Tư pháp huyện Mỹ Đức, Hà Nội tiến hành kiểm tra hồ sơ xin đăng ký kết hôn của ông T và bà D (giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) thì thấy: Ông Lê Xuân T đã có vợ, nhưng đã chết. Trong hồ sơ xin đăng ký kết hôn không có tờ khai xin đăng ký kết của ông T và bà D; Ông T không có xác nhận tình trạng hôn nhân từ thời gian 29/12/2005 đến ngày 27/01/2007. Như vậy, tại thời điểm ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D đăng ký kết hôn là đủ điều kiện kết hôn được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Ngày 22/4/2009, Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1.k Điều 78 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Từ tình huống thực tiễn trên, tác giả bài viết xin nêu một số quan điểm giải quyết cũng như hậu quả pháp lý của việc Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn như sau:

Thứ nhất: Giấy chứng nhận kết hôn là một trong những giấy tờ hộ tịch. Tại thời điểm ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D đăng ký kết hôn là đủ điều kiện kết hôn được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình, nhưng lại vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 18 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch. Việc Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành Quyết định số 595/QĐ-UBND ngày 22/4/2005 về việc thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn số 09; quyển 01 đăng ký ngày 27/01/2007 tại Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1.k Điều 78 của Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.

Thứ hai: Quan hệ hôn nhân giữa ông Lê Xuân T và bà Nguyễn Thị D được xác lập trên cơ sở đảm bảo đầy đủ về điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 9, đồng thời không vi phạm những trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ủy ban nhân dân xã Phù Lưu Tế đã cấp giấy chứng nhận kết hôn cho ông T và bà D là đúng thẩm quyền. Sau khi ông T chết, do có khiếu nại, nên Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn mới phát hiện thiếu tờ khai đăng ký kết hôn và giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Nếu bình thường, chỉ cần bổ sung là hợp lệ nhưng trường hợp này người chồng lại chết. Lỗi này thuộc về trách nhiệm cán bộ tư pháp xã Phù Lưu tế đã không hướng dẫn cho người dân và không thể vì lỗi của chính quyền mà đẩy hậu quả sang cho người dân được. Căn cứ điểm k, khoản 1, Điều 78 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch, Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Đức ban hành quyết định thu hồi, hủy bỏ những giấy chứng nhận kết hôn đã cấp cho ông T và bà D là máy móc, chỉ dựa theo tư duy pháp lý đơn thuần vì các giấy tờ còn thiếu trong hồ sơ kết hôn chỉ là thủ tục hành chính phản ánh về điều kiện kết hôn mà thôi.

Thứ ba: Hậu quả pháp lý của việc Ủy ban nhân dân cấp huyện huỷ giấy chứng nhận kết hôn của cơ quan hành chính xã như thế nào; có phát sinh quan hệ hôn nhân giữa ông T và bà D từ thời điểm đăng ký kết hôn đến ngày quyết định hành chính hủy quyết định đăng ký kết hôn có hiệu lực không? Lý giải vấn đề này có ý nghĩa trong tình huống thực tiễn trên là bà D có quyền thừa kế và yêu cầu phân chia di sản thừa kế của ông T, sau khi có quyết định hành chính huỷ giấy chứng nhận kết hôn hay không. Vấn đề sẽ trở nên phức tạp thêm trong trường hợp sau đó bà D có con chung với ông T… thì quyền và lợi ích hợp pháp của bà D sẽ được giải quyết như thế nào.

Thứ tư: Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định rõ về việc huỷ kết hôn trái pháp luật. Cụ thể tại Điều 15 quy định về người có quyền yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật; Điều 16 quy định thẩm quyền huỷ kết hôn trái pháp luật thuộc về Toà án; Điều 17 quy định về hậu quả pháp lý của việc huỷ kết hôn trái pháp luật; căn cứ để huỷ kết hôn trái pháp luật trong trường hợp kết hôn vi phạm Điều 9 (điều kiện kết hôn) và Điều 10 (những trường hợp cấm kết hôn) Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Đối chiếu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình với tình huống thực tiễn trên thì giả thiết có khởi kiện ra Toà án thì Toà án cũng không có căn cứ để huỷ hôn nhân trái pháp luật.

Tuy nhiên, tình huống thực tiễn trên cho thấy chỉ vì thiếu một số thủ tục hành chính chứng minh về điều kiện hôn nhân để ra một quyết định hành chính huỷ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn đồng thời bỏ lửng hậu quả pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cho thấy sự bất cập, không phù hợp quy định của pháp luật.

Quan điểm của tác giả đồng tình với quan điểm thứ tư, đồng thời đưa ra kiến nghị cần quy định rõ về thẩm quyền huỷ các giấy tờ hộ tịch trái pháp luật trong dự thảo Luật Hộ tịch; đối với việc kết hôn nếu có dấu hiệu trái pháp luật, thì trong mọi trường hợp việc giải quyết thuộc thẩm quyền Toà án, không để quy định chung chung dẫn đến việc Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền huỷ giấy chứng nhận đăng ký kết hôn như tình huống thực tiễn trên.

Nguyễn Phương Nam

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm