Thứ năm 19/06/2025 11:13
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Luật Bình đẳng giới - Thực tiễn và kinh nghiệm 10 năm thực hiện

Bài viết nêu lên thực trạng công tác bình đẳng giới trong các lĩnh vực chính trị, lao động, giáo dục và đào tạo, quản lý nhà nước, từ đó, đưa ra một số bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện công tác bình đẳng giới sau 10 năm thi hành Luật Bình đẳng giới.

1. Thực trạng công tác bình đẳng giới sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành

Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách khá đầy đủ và rõ ràng trong việc đảm bảo bình đẳng giới trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và gia đình. Tuy nhiên, từ quan điểm chính sách tới thực hiện chính sách vẫn còn có những khoảng trống nhất định.

1.1. Trong lĩnh vực chính trị
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 đề ra mục tiêu tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy Đảng nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt từ 25% trở lên và tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội và tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2015 đạt từ 30% trở lên và nhiệm kỳ 2016 - 2020 đạt trên 35%. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này chưa đạt được như kỳ vọng. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nhiệm kỳ 2011 - 2015 đạt ở mức 24,4%, giảm 1,3% so với nhiệm kỳ trước (nhiệm kỳ 2007 - 2011 đạt ở mức 25,7%). Mặc dù, khi so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao. Tuy nhiên, vị trí xếp hạng của Việt Nam đã giảm so với trước (hiện nay, Việt Nam đứng thứ 43/143 quốc gia trên thế giới và giữ vị trí thứ 02 (sau nước Lào) trong 08 nước ASEAN). Khi so sánh tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội so với các nhiệm kỳ trước đây còn cho thấy đang có xu hướng giảm dần.

Tương tự, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2011 - 2015 đạt ở mức 25,17% và tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân quận, huyện, thị xã là 24,62%, tỷ lệ nữ đại biểu Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn là 21,71%. Như vậy, tất cả các chỉ tiêu này đều thấp hơn so với chỉ tiêu kỳ vọng của chiến lược quốc gia (từ 30% trở lên).

Ngoài ra, chiến lược cũng quy định, phấn đấu đến năm 2015 sẽ đạt 80% các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp có lãnh đạo chủ chốt là nữ. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 02/2012, có 12/30 Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nữ cán bộ đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo chủ chốt, chiếm tỷ lệ 40% và có 24/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nữ đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân, chiếm tỷ lệ 38%. Chiến lược quốc gia cũng quy định phấn đấu đến năm 2015 đạt 70% cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ nếu tỷ lệ nữ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động từ 30% trở lên. Tuy nhiên, tính đến hết tháng 02/2012, mới có 14/27 cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội có lãnh đạo chủ chốt là nữ, chiếm tỷ lệ 51,85%.

Các kết quả trên cho thấy, hiện còn một khoảng trống khá lớn giữa kỳ vọng và kết quả thực tế. Điều này đặt ra thách thức lớn đối với Đảng và Nhà nước trong việc tăng cường tỷ lệ phụ nữ tham gia trong lĩnh vực chính trị hiện nay. Có nhiều nguyên nhân khiến cho các qui định của luật pháp chính sách về bình đẳng giới gặp khó khăn để đi vào cuộc sống, trong đó có sự hạn chế trong nhận thức xã hội về bình đẳng giới và việc sử dụng các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới. Thực tế cho thấy, hiện nay không ít người vẫn chưa hiểu đúng về bản chất của bình đẳng giới và thường cho rằng, bình đẳng giới chỉ là vấn đề của phụ nữ. Bên cạnh đó, định kiến giới về vai trò tham gia chính trị của phụ nữ vẫn còn khá phổ biến trong quan niệm của các nhà lãnh đạo và chính bản thân người phụ nữ. Do đó, mặc dù, nỗ lực thúc đẩy bình đẳng giới thường mang tính hình thức mà chưa tuân thủ nguyên tắc cơ bản đó là tôn trọng, ghi nhận và tạo điều kiện thuận lợi trên cơ sở khác biệt, để nam và nữ có thể phát huy tối đa tiềm năng và đóng góp của mình trong lĩnh vực chính trị.

Báo cáo của Chính phủ và kết quả giám sát của Ủy ban Các vấn đề xã hội Quốc hội cho thấy, tỷ lệ phụ nữ tham gia các chức danh quản lý, lãnh đạo trong các cơ quan của Đảng, cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp ở Trung ương và địa phương tuy đã có tăng hơn so với trước nhưng vẫn còn thấp chưa tương xứng với lực lượng lao động nữ và dân số nữ. Nguyên nhân của tình hình này có một phần là do quy định về tuổi nghỉ hưu chênh lệch giữa nam và nữ đã tác động trực tiếp tới cơ hội cho phụ nữ trong việc bổ nhiệm, đề bạt, ứng cử… so với nam giới. Mặt khác, quy định hiện hành về tuổi nghỉ hưu của lao động nữ (bao gồm cả cán bộ, công chức) thấp hơn nam cùng ngành, nghề, lĩnh vực, địa bàn 05 tuổi là một chính sách của Đảng và Nhà nước ta tạo điều kiện để phụ nữ chăm lo gia đình, bảo vệ sức khỏe, đáp ứng nhu cầu của lao động nữ, phù hợp với bối cảnh lịch sử khi chính sách ra đời vào những năm 60 của thế kỷ trước, có thể được coi như là một “biện pháp đặc biệt tạm thời” nhằm bảo đảm sự bình đẳng giữa nam và nữ. Song đến nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và xã hội, tuổi nghỉ hưu của một bộ phận lao động nữ là vấn đề cần phải quan tâm. Do đó, Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội đã và đang nghiên cứu, điều tra, tổng kết, đánh giá để đề xuất việc sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp với thực tiễn.

1.2. Trong lĩnh vực lao động

Các chỉ tiêu liên quan đến mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động đạt được có khả quan hơn so với các mục tiêu khác. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 quy định, hàng năm, trong tổng số người được tạo việc làm mới, bảo đảm ít nhất 40% cho mỗi giới (nam và nữ). Theo số liệu thống kê năm 2011, cả nước đã tạo được việc làm cho 1.538.298 lao động, trong đó, lao động nữ được tạo việc làm là 48% và lao động nam được tạo việc làm là 52%. Như vậy, đã đạt chỉ tiêu của Chiến lược đề ra. Bên cạnh đó, Chiến lược quốc gia cũng đề ra chỉ tiêu kỳ vọng tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 25% vào năm 2015. Theo số liệu thống kê năm 2011, cả nước tuyển mới dạy nghề cho 1.860.000 người (trong đó cao đẳng nghề và trung cấp nghề là 420.000 người, sơ cấp nghề và dạy nghề thường xuyên (dưới 03 tháng) là 1.440.000 người); trong đó, có 43% là nữ; trong số 420.000 người được tuyển mới cao đẳng nghề và trung cấp nghề, có 37% là nữ. Thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”, trong năm 2010 và năm 2011 cả nước đã tổ chức dạy nghề cho 798.240 lao động nông thôn (46% học các nghề nông nghiệp và 54% học các nghề phi nông nghiệp), trong đó, gần 50% là lao động nữ.

Tuy nhiên, hiện tại, để đạt được mục tiêu bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động việc làm, hiện vẫn còn khá nhiều thách thức cần giải quyết. Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động hiện vẫn thấp hơn rất nhiều so với nam giới. Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động ở thời điểm Quý 3 năm 2016 là 72,1%, trong đó, tỷ lệ này ở nhóm nam giới là 81,7% (thấp hơn gần 10%). Tiền lương bình quân của nam và nữ trong nhóm lao động làm công ăn lương cũng có khác biệt khá lớn. Mức lương bình quân của lao động nam đạt ở mức 5.191.000 đồng/tháng, trong đó, mức lương bình quân của lao động nữ đạt ở mức 4.578.000 đồng. Số lượng lao động nữ thiếu việc làm theo giờ chiếm cao hơn so với lao động nam. Trong số 824.800 người thiếu việc làm theo giờ, có 385.700 nam giới và 439.100 phụ nữ. Điều này cho thấy, phụ nữ đang gặp nhiều yếu thế hơn so với nam giới trong việc tiếp cận cơ hội việc làm cũng như hưởng lợi từ thành quả lao động.

1.3. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo

Chiến lược quốc gia kỳ vọng tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt ở mức 90% vào năm 2015. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 2011, tỷ lệ phụ nữ biết đọc, biết viết đã đạt 92%; tỷ lệ trẻ em gái vùng vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, học tiểu học và trung học cơ sở đạt khoảng 80%; tỷ lệ biết chữ của nam và nữ trong độ tuổi từ 15 đến 40 ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn đạt trên 80%. Bên cạnh đó, chiến lược quốc gia quy định tỷ lệ nữ thạc sỹ đạt 40% vào năm 2015; tỷ lệ nữ tiến sỹ đạt 20% vào năm 2015. Theo số liệu thống kê năm 2011, tỷ lệ nữ sinh viên chiếm trên 50% trong các trường đại học và cao đẳng; nữ thủ khoa chiếm 61,6% các kỳ tuyển sinh và tốt nghiệp đại học. Đội ngũ nữ trí thức tiếp tục tăng cả về số lượng, chất lượng và được trẻ hóa, chiếm gần 30,53% số người có trình độ thạc sỹ và 17,1% số người có trình độ tiến sỹ. Các kết quả đạt được hiện tại đã tiến khá gần với chỉ tiêu đề ra đến năm 2015 của chiến lược.

Tuy nhiên, mặc dù có thể đạt được các chỉ tiêu đề ra, nhưng để có được bình đẳng giới thực chất thì vẫn còn là một thách thức lớn trong thực tiễn. Tỷ lệ giáo viên nữ đảm nhận các vị trí quản lý giáo dục ở cấp tỉnh và cấp huyện mới chỉ đạt trung bình các năm học từ 2007 - 2013 đạt ở mức 29,9%. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại có xu hướng giảm dần theo các năm. Nếu như tỷ lệ này đạt ở mức 33,3% vào năm học 2007 - 2008 thì đến năm 2012 - 2013, tỷ lệ này đã giảm xuống còn 20%. Bên cạnh đó, có thể thấy, hầu như không có sự khác biệt giữa nam và nữ đang tham gia ở các cấp học thấp như mầm non, tiểu học, trung học cơ sở và phổ thông trung học. Tuy nhiên, sự khác biệt này được thấy rõ ràng hơn ở các bậc học cao hơn. Tỷ lệ nữ giáo sư hiện mới chỉ chiếm 5,1% và tỷ lệ nữ phó giáo sư là 11,7%. Điều này đặt ra thách thức cho nỗ lực hướng tới bình đẳng giới của quốc gia trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

1.4. Trong lĩnh vực quản lý nhà nước về bình đẳng giới

Chiến lược quốc gia quy định đến năm 2015 có quy định về việc lồng ghép giới vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (kỳ vọng 80% dự thảo được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bình đẳng giới) và 100% thành viên Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xác định có nội dung liên quan đến bình đẳng giới hoặc có vấn đề bất bình đẳng giới, phân biệt đối xử về giới; cán bộ làm công tác bình đẳng giới được nâng cao kiến thức về giới, phân tích giới và lồng ghép giới. Tuy nhiên các kết quả đạt được vẫn ở mức khá khiêm tốn.

Mặc dù, Luật Bình đẳng giới đã xác định Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, và hiện nay, hầu hết các dự án, văn bản quy phạm pháp luật trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành đều do Chính phủ chủ trì soạn thảo. Song, qua theo dõi việc lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thời gian qua cho thấy, một số Bộ, ban, ngành - cơ quan chủ trì soạn thảo chưa thực sự tích cực, chủ động trong việc tuân thủ quy trình và yêu cầu lồng ghép giới cũng như phân tích giới, đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật tới nam và nữ nên hiệu quả lồng ghép giới chưa đạt được như mong muốn hoặc mang tính hình thức.

Các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng phân tích, đánh giá và lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ, công chức tham gia hoạch định chính sách và xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đã được các Bộ, ngành, địa phương chú trọng thực hiện. Hiện có 12 tỉnh, thành phố được trung ương hỗ trợ kinh phí tổ chức tập huấn về bình đẳng giới, lồng ghép giới cho đội ngũ cán bộ Đảng, cán bộ dân cử và cán bộ quản lý nhà nước trên địa bàn địa phương, mỗi tỉnh có 03 lớp. Về cơ bản, 12 tỉnh, thành phố này đã tập huấn được kiến thức về giới, lồng ghép giới cho 100% cán bộ làm công tác bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh, thành phố. Tuy nhiên, để các cán bộ này thực sự làm tốt nhiệm vụ về bình đẳng giới thì họ cần được đầu tư để nâng cao kiến thức này tại nhiều lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo chuyên đề khác.

Năm 2007, Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và xã hội chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Đến nay, hệ thống tổ chức, bộ máy làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới về cơ bản đã được hình thành từ Trung ương đến các địa phương và hoạt động đi vào nề nếp. Đáng chú ý là Ủy ban Quốc gia Vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam tiếp tục được kiện toàn về tổ chức và nguồn nhân lực, bước đầu đã hoạt động khá tốt. Tuy nhiên, việc giao nhiệm vụ quản lý nhà nước và sắp xếp tổ chức, bộ máy, bố trí cán bộ làm công tác bình đẳng giới ở các bộ/ngành, địa phương vẫn còn chậm so với yêu cầu cấp thiết của công tác và cuộc sống. Cho đến nay, bộ máy các Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ cấp tỉnh, huyện vẫn chưa được hoàn thiện và các bộ, ngành còn lúng túng về mô hình tổ chức, cũng như phương thức hoạt động; chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới còn mỏng, chưa được đào tạo kiến thức, kỹ năng chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Theo báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương, trên toàn quốc hiện có 126 cán bộ làm công tác bình đẳng giới ở các tỉnh, thành phố, trong đó, có 72 cán bộ chuyên trách. Phòng Bình đẳng giới mới được thành lập tại 9/63 Sở Lao động - Thương binh và xã hội. Hiện nay, chỉ có Bộ Nội vụ và Ủy ban Dân tộc bố trí cán bộ làm công tác bình đẳng giới tại vụ chuyên môn; tại các cơ quan còn lại, Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ được giao nhiệm vụ tham mưu về công tác bình đẳng giới.

2. Bài học kinh nghiệm

Từ thực tiễn triển khai công tác bình đẳng giới trong giai đoạn 10 năm (2007 - 2017) và thực hiện Chiến lược Quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ giai đoạn (2011 - 2020), có thể tổng kết lại những kinh nghiệm mang tính thực tiễn như sau:

Một là, tăng cường nâng cao nhận thức đúng đắn và sự cam kết mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị trong thực hiện bình đẳng giới, việc thay đổi thái độ tích cực và trách nhiệm cao của cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp là tiền đề cơ bản thúc đẩy chất lượng, hiệu quả công tác bình đẳng giới. Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về bình đẳng giới có ý nghĩa rất quan trọng và cần được tiếp tục tăng cường.

Hai là, đẩy mạnh trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong thực hiện hiệu quả việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng và thực hiện chiến lược, chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới là yếu tố và giải pháp then chốt. Đặc biệt, cần tăng cường việc giám sát và thực thi các quy định này trong thực tiễn.

Ba là, tiếp tục, tăng cường năng lực của tổ chức, bộ máy và cán bộ quản lý nhà nước về bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ là yếu tố nền tảng; nhất là, xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp vừa có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, vừa tâm huyết với công tác bình đẳng giới. Cơ chế phối hợp liên ngành có hiệu quả có ý nghĩa quan trọng bảo đảm công tác bình đẳng giới đạt kết quả tốt. Tăng cường năng lực cho bộ máy quốc gia về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ và lập ngân sách có tính đến các quan hệ giới là điều kiện thiết yếu để thực hiện nhiệm vụ bình đẳng giới.

Bốn là, nâng cao chất lượng hệ thống cơ sở dữ liệu về bình đẳng giới và tiến bộ phụ nữ, đặc biệt là thể chế hóa việc sử dụng các số liệu tách biệt theo giới tính và các thông tin về giới, bằng chứng liên quan đến giới trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách nhằm thúc đẩy bình đẳng giới thực chất.

Năm là, tăng cường vai trò chủ động và năng lực tham mưu cho Hội Phụ nữ và Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp trong việc tham mưu lồng ghép giới, chỉ đạo, đôn đốc và kiểm tra công tác bình đẳng giới một cách thường xuyên giúp cho việc nắm bắt tình hình tốt hơn và kịp thời đề xuất các giải pháp giải quyết những vấn đề giới nổi cộm, qua đó, nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc thúc đẩy bình đẳng giới.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế về bình đẳng giới và tranh thủ sự hỗ trợ về kỹ thuật, thông tin, tài chính là cần thiết nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu bình đẳng giới.

Nguyễn Văn Đồng

Đại học Luật Hà Nội


Tài liệu tham khảo:

1. Nguyễn Văn Đồng, Vấn đề giới, lồng ghép giới trong chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, Tạp chí Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, số 147, năm 2016, tr.14 - 19.

2. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bình đẳng giới, số 73/2006/QH11, năm 2006.

3. Trương Thị Mai, Việt Nam thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới, Tạp chí Cộng Sản, số 187, năm 2009, tr.18 - 25.

4. Vụ các vấn đề xã hội, Lồng ghép vấn đề Bình đẳng giới trong dự án Luật Người cao tuổi, Báo cáo Văn phòng Quốc hội, năm 2009.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm