Thứ năm 25/09/2025 05:26
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số so sánh về Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam với Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo Hiến pháp hiện hành

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những nét đặc trưng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam và Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo Hiến pháp hiện hành của hai quốc gia

Tóm tắt: Trong bài viết này, tác giả tập trung phân tích những nét đặc trưng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam và Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo Hiến pháp hiện hành của hai quốc gia.

Abstract: In this paper, the author focuses on features of the Standing Committee of the National Assembly of Vietnam to the Standing Committee of the National People's Congress of the People's Republic of China under the current Constitution of the two nations.

Cơ quan lập pháp của Việt Nam và Trung Quốc được thiết lập theo mô hình một viện mặc dù tên gọi có khác nhau: Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi chung là Quốc hội). Hình thức hoạt động quan trọng bậc nhất của Quốc hội là các kỳ họp, tuy nhiên Quốc hội Việt Nam và Trung Quốc lại bao gồm phần đa số các đại biểu hoạt động không thường xuyên, không chuyên trách, trong khi quyền hạn rất lớn, buộc Quốc hội phải thành lập ra một cơ quan thường trực để giúp Quốc hội đảm nhận các hoạt động có tính chất thường xuyên và điều phối hoạt động của Quốc hội giữa hai kỳ họp đó chính là Ủy ban Thường vụ.

Mặc dù cùng tên gọi Ủy ban Thường vụ, cùng giữ vai trò là cơ quan thường trực của Quốc hội Việt Nam và Trung Quốc, tuy nhiên Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) Việt Nam và Trung Quốc cũng có những đặc trưng riêng của mình. Dưới đây là một số so sánh về UBTVQH Việt Nam và Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa theo Hiến pháp hiện hành của hai nước.

1. Vị trí, vai trò của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội chiếm một vị trí quan trọng trong bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Hiến pháp năm 2013, vị trí pháp lý của Quốc hội được xác định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước”[1]. Với tư cách là cơ quan thường trực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, UBTVQH Việt Nam đóng vai trò quan trọng nhất định trong lĩnh vực kiểm soát quyền lực nhà nước, thẩm quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp. Có thể thấy rằng, UBTVQH Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu tổ chức của Quốc hội và là nhân tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của Quốc hội Việt Nam.

Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa (Quốc hội Trung Quốc) là cơ quan quyền lực tối cao và là cơ quan lập pháp, tương đương với Quốc hội ở các nước khác. Theo Hiến pháp hiện nay của Trung Quốc[2], Quốc hội được cấu trúc như một cơ quan lập pháp đơn viện, với sức mạnh để lập pháp, quyền giám sát hoạt động của Chính phủ, bầu các chức danh quan trọng của Nhà nước, cũng như là cơ quan tham vấn với các thành viên đại diện cho các nhóm xã hội khác nhau. Tuy nhiên, trên thực tế, Quốc hội Trung Quốc hoạt động hình thức và chịu sự chi phối, kiểm soát mạnh mẽ của Đảng cộng sản Trung Quốc, đặc biệt về thành phần đại biểu[3].

Quốc hội Trung Quốc được bầu ra với nhiệm kỳ 05 năm thông qua một hệ thống bầu cử nhiều cấp[4]. Các đại biểu được bầu từ các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương, các đặc khu hành chính, các đại biểu được bầu từ lực lượng vũ trang, tất cả dân tộc thiểu số có quyền đại diện thích hợp[5]... Quốc hội Trung Quốc tổ chức mỗi năm một phiên họp trong khoảng 07 - 10 ngày, nhiều nhất là 20 ngày. Do số lượng đại biểu rất đông sẽ không đảm bảo tính chuyên nghiệp, tinh hoa và thống nhất. Các đại biểu không có tính gắn kết cao, hoạt động sẽ rời rạc nhất là lại không hoạt động thường xuyên đồng nghĩa với việc ảnh hưởng và quyền lực thực sự nằm trong một Ủy ban thường trực gồm khoảng trên 160 thành viên được bầu từ các đại biểu Quốc hội với tần suất họp và làm việc thường xuyên mỗi tháng một lần, đó chính là Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa[6] (sau đây gọi là UBTVQH Trung Quốc).

Như vậy, có thể thấy vai trò quan trọng của Ủy ban Thường vụ đối với Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Trung Quốc, là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu của Quốc hội. Sở dĩ, việc tồn tại UBTVQH là do cả Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Trung Quốc hoạt động không thường xuyên như các Quốc hội khác trên thế giới nên buộc phải lập ra cơ quan mang tính thường trực, có quyền giải quyết những quyền hạn của Quốc hội.

2. Cách thức thành lập và cơ cấu tổ chức

UBTVQH Việt Nam là cơ quan thường trực của Quốc hội và do Quốc hội bầu ra[7]. Thành phần UBTVQH Việt Nam gồm có: Chủ tịch Quốc hội, các Phó Chủ tịch Quốc hội và các ủy viên[8]. Chủ tịch Quốc hội làm Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội làm Phó Chủ tịch[9]. Số thành viên UBTVQH Việt Nam do Quốc hội quyết định. Thành viên UBTVQH Việt Nam không thể đồng thời là thành viên của Chính phủ[10] và nhiệm kỳ sẽ kết thúc cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu ra UBTVQH Việt Nam mới. Cơ quan này làm việc theo chế độ hội nghị và mỗi tháng họp ít nhất một lần. Thông thường khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, UBTVQH Việt Nam thường ban hành pháp lệnh và nghị quyết. Pháp lệnh và nghị quyết phải được quá nửa tổng số ủy viên biểu quyết tán thành.

UBTVQH Trung Quốc là cơ quan thường trực quyền lực cao nhất của Quốc hội Trung Quốc. Ủy ban Thường vụ do Chủ tịch (Ủy viên trưởng), Phó chủ tịch (Phó Ủy viên trưởng), Tổng Thư ký và khoảng trên 160 người là thành viên của Quốc hội Trung Quốc cấu thành. Theo Luật Tổ chức Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Cộng hòa nhân dân Trung Hoa quy định: Ủy ban Thường vụ do Quốc hội Trung Quốc bầu ra, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội Trung Quốc, với nhiệm kỳ 05 năm theo nhiệm kỳ của Quốc hội Trung Quốc, quản lý các Ủy ban chuyên trách của Quốc hội Trung Quốc. Thành viên Ủy ban Thường vụ không đảm nhiệm các chức vụ thuộc cơ quan hành chính, cơ quan thẩm phán, cơ quan kiểm sát[11].

3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

Thông qua hai bản Hiến pháp của Việt Nam và Trung Quốc, có thể khái quát những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn chính của UBTVQH thông qua những khía cạnh sau:

Thứ nhất, những nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH với tư cách là một cơ quan ban hành văn bản quy phạm pháp luật và giải thích pháp luật

Theo Điều 74 Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, UBTVQH được giao: “Ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao; giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh”. Có thể nói rằng đây là 02 nhiệm vụ vô cùng quan trọng, nó thể hiện quyền hạn của UBTVQH mà không một cơ quan nào có được.

Ủy ban Thường vụ “ra pháp lệnh về những vấn đề được Quốc hội giao” là một chức năng rất gần với “lập pháp” của Quốc hội (pháp lệnh phải nằm trong chương trình lập pháp của Quốc hội), thực chất là bổ sung vào những vấn đề thiếu vắng luật hoặc luật điều chỉnh không đầy đủ. Có ý kiến cho rằng pháp lệnh trong một chừng mực nào đó còn tồn tại do chủ yếu của sự vắng luật chứ không phải là do luật chưa điều chỉnh một cách đầy đủ - sự thiếu hụt của luật. Với việc ngày càng nâng cao vai trò lập pháp của Quốc hội, UBTVQH hiện nay chỉ được phép làm pháp lệnh trong phạm vi chương trình cho phép của Quốc hội và có thể bị Chủ tịch nước phủ quyết. Chính những đặc điểm này đã hạn chế chức năng ra pháp lệnh của UBTVQH nhằm tăng cường hoạt động lập pháp của Quốc hội.

UBTVQH thời gian qua mặc dù đã rất cố gắng nhưng vẫn không thể thực hiện chức năng giải thích pháp luật một cách hiệu quả. Điều này có thể lý giải bởi các lý do sau: (i) UBTVQH không có các chất liệu đời sống từ phía người dân để cân bằng với các quy phạm hiến định, pháp định từ phía cơ quan nhà nước; (ii) Họ nhìn các quy định hiến định và pháp định dưới con mắt của người trong cuộc chứ không phải dưới con mắt của chủ thể phản biện, chủ thể đánh giá; (iii) Tư cách của họ không hoàn toàn độc lập với các chủ thể lập pháp, lập hiến, bởi vì họ là chủ thể đắc lực tham gia vào quá trình lập pháp, lập hiến đó[12].

Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 tại Điều 58 quy định chủ thể thực hiện quyền lập pháp của Nhà nước: Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thực hiện quyền lập pháp. Điều 67 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của UBTVQH Trung Quốc: (i) Sửa đổi Hiến pháp, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp; (ii) Ban hành và sửa đổi các văn bản pháp luật mà các văn bản này không do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ban hành và sửa đổi; (iii) Trong thời gian Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc không họp, có thể bổ sung hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ban hành, nhưng không được mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của những văn bản pháp luật này; (iv) Giải thích pháp luật[13].

UBTVQH Trung Quốc được Hiến pháp trao cho quyền lực lập pháp như một Quốc hội. Việc Ủy ban Thường vụ có quyền lực lập pháp do cơ quan thành lập ra nó là Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc tổ chức mỗi năm có một phiên họp, với số lượng đại biểu hùng hậu (gần 3.000 thành viên) sẽ không đảm bảo tính chuyên nghiệp, tinh hoa và thống nhất. Các đại biểu không có tính gắn kết cao, hoạt động sẽ rời rạc, hoạt động không thường xuyên và mang tính hình thức nên rất khó đưa ra được ý kiến tập trung, vì vậy đồng nghĩa với việc ảnh hưởng và quyền lực thực sự nằm trong một Ủy ban thường trực gồm khoảng trên 160 thành viên được bầu từ các đại biểu Đại hội với tần suất họp và làm việc thường xuyên mỗi tháng một lần, đó chính là UBTVQH Trung Quốc.

Như vậy có thể thấy, nếu như UBTVQH Việt Nam chỉ được ban hành văn bản quy phạm pháp luật dưới dạng pháp lệnh (văn bản dưới luật) thì UBTVQH Trung Quốc lại là cơ quan làm luật.

Theo Hiến pháp năm 2013, UBTVQH Việt Nam chỉ được quy định giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh thì Hiến pháp Trung Quốc năm 1982 trao cho UBTVQH Trung Quốc thẩm quyền giải thích pháp luật. UBTVQH Trung Quốc - một chủ thể mang quyền lực nhà nước có quyền giải thích mọi văn bản có nội dung chứa quy phạm pháp luật, điều này khác với Việt Nam chưa có bất cứ một quy định nào về giải thích các hình thức văn bản quy phạm pháp luật khác (ngoài quy định giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh).

Thứ hai, những nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng thường vụ tổ chức cho Quốc hội hoạt động

Theo Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam, UBTVQH có nhiệm vụ, quyền hạn: Tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội; chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cho Hội đồng bầu cử quốc gia (Điều 117); tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội; chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của đại biểu Quốc hội; thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội và tổ chức trưng cầu ý dân theo quyết định của Quốc hội (Điều 74).

Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc quy định việc bầu cử Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc do Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc chủ trì (Điều 59); tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp của Quốc hội (Điều 61); lãnh đạo các Ủy ban khi Quốc hội không họp (Điều 70); thành lập Ủy ban điều tra đối với các vấn đề đặc biệt nếu thấy cần thiết (Điều 71); thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội (Điều 67).

Với tư cách là cơ quan thường trực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, UBTVQH của Việt Nam và của Trung Quốc đều đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức việc chuẩn bị, triệu tập và chủ trì các kỳ họp của Quốc hội; chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; hướng dẫn và bảo đảm điều kiện hoạt động của Đại biểu Quốc hội, thực hiện quan hệ đối ngoại của Quốc hội.

Thứ ba, những nhiệm vụ, quyền hạn thay Quốc hội giải quyết những nhiệm vụ của Quốc hội giữa hai kỳ họp

Hiến pháp năm 2013 của Việt Nam quy định UBTVQH có nhiệm vụ giải quyết các công việc của Quốc hội giữa hai kỳ họp tại Điều 74 như sau: Đình chỉ việc thi hành văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất; quyết định việc tuyên bố tình trạng chiến tranh trong trường hợp Quốc hội không thể họp được và báo cáo Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất.

Những nhiệm vụ nêu trên nếu ở quốc gia có Quốc hội hoạt động thường xuyên sẽ không được phép giao lại cho một cơ quan nào khác đảm nhiệm, nhưng do ở Việt Nam, Quốc hội không hoạt động thường xuyên nên để đáp ứng kịp thời cho các tình huống cấp bách xảy ra, những nhiệm vụ trên đã được trao cho UBTVQH với tư cách là cơ quan thường trực của Quốc hội. Hiện nay số lượng kỳ họp của Quốc hội Việt Nam ngày càng tăng, nên những nhiệm vụ này của UBTVQH ngày càng có xu hướng chuyển về cho Quốc hội.

Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc trao cho UBTVQH Trung Quốc những nhiệm vụ, quyền hạn thay Quốc hội giải quyết những công việc của Quốc hội giữa hai kỳ họp, cụ thể: (i) Có thể bổ sung hoặc sửa đổi các văn bản pháp luật do Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc ban hành, nhưng không được mâu thuẫn với nguyên tắc cơ bản của những văn bản pháp luật này; (ii) Có thể có phương án điều chỉnh bộ phận khi cần thiết trong quá trình thi hành dự toán nhà nước, thẩm tra và phê chuẩn kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; (iii) Theo đề nghị của Thủ tướng Quốc vụ viện quyết định bầu ra các bộ trưởng, chủ nhiệm các ủy ban, Tổng kiểm toán, Trưởng Ban thư ký; (iv) Theo đề nghị của Chủ tịch Ủy ban Quân sự trung ương, quyết định bầu các thành viên khác trong Ủy ban Quân sự trung ương; (v) Nếu xảy ra xâm lược vũ trang hoặc cần thiết phải tham gia vào điều ước quốc tế để chống lại sự xâm lược trong cộng đồng quốc tế, Ủy ban Thường vụ có quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh[14].

Như vậy, so với Việt Nam, Quốc hội Trung Quốc trao thẩm quyền của mình cho UBTVQH mạnh mẽ hơn rất nhiều. Điều này cũng phù hợp với thực tế số lượng kỳ họp của Quốc hội Trung Quốc một năm chỉ có một lần, hoạt động của nó chỉ mang tính hình thức và hầu hết các đại biểu đều là kiêm nhiệm.

Thứ tư, nhiệm vụ, quyền hạn của UBTVQH trong việc giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và luật của các cơ quan nhà nước khác

Với tư cách là cơ quan thường trực của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, UBTVQH của Việt Nam và UBTVQH của Trung Quốc đều đóng vai trò quan trọng nhất định trong lĩnh vực kiểm soát quyền lực nhà nước. Cả hai cơ quan đều có thẩm quyền giám sát việc thi hành Hiến pháp[15]. Phạm vi giám sát của UBTVQH hai nước đều bao gồm: Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và các Hội đồng nhân dân ở cấp tỉnh hoặc tương đương. Tuy nhiên, các quy định của Hiến pháp hai quốc gia về quyền kiểm soát của hai cơ quan cũng có những điểm khác biệt quan trọng, cụ thể:

Một là, đối với thẩm quyền bãi bỏ các văn bản, UBTVQH của Việt Nam chỉ có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH. Nếu các văn bản đó trái với Hiến pháp hoặc luật thì UBTVQH đình chỉ việc thi hành và trình Quốc hội quyết định việc bãi bỏ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất. UBTVQH có quyền bãi bỏ các văn bản có cùng tính chất vi phạm của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thậm chí có quyền giải tán Hội đồng nhân dân cấp tỉnh nếu Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của người dân[16].

UBTVQH của Trung quốc bãi bỏ các văn bản pháp quy hành chính, quyết định và mệnh lệnh trái với Hiến pháp và pháp luật của Quốc vụ viện; bãi bỏ các văn bản pháp quy và quyết định có tính địa phương do cơ quan quyền lực nhà nước cấp tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương ban hành trái với Hiến pháp, pháp luật và văn bản pháp quy hành chính[17].

Hai là, UBTVQH của Trung Quốc có một đặc quyền tương tự như Quốc hội Trung Quốc mà UBTVQH Việt Nam không có đó là quyền thành lập các ủy ban điều tra lâm thời. Theo Điều 71 Hiến pháp năm 1982 của Trung Quốc, UBTVQH Trung Quốc nếu thấy cần thiết có thể thành lập ủy ban điều tra đối với các vấn đề đặc biệt và căn cứ vào báo cáo của ủy ban điều tra để ra các quyết định tương ứng. Ủy ban điều tra khi tiến hành điều tra, tất cả các cơ quan nhà nước, đoàn thể xã hội và công dân có liên quan đều có nghĩa vụ cung cấp tài liệu cần thiết khi cơ quan này yêu cầu.

Thứ năm, những nhiệm vụ liên quan đến việc quyết định tình trạng đặc biệt của đất nước

UBTVQH Việt Nam quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương chính[18]. UBTVQH của Trung Quốc có quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, quyết định tổng động viên toàn quốc hoặc động viên cục bộ; quyết định giới nghiêm toàn quốc hoặc các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc[19].

Đặc điểm của những nhiệm vụ này là phải giải quyết một cách nhanh chóng để kịp thời hạn chế những thiệt hại do tình hình đặc biệt gây ra. Do vậy, những nhiệm vụ, quyền hạn này theo quy định của các quốc gia khác là thuộc thẩm quyền của Nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu nhà nước). Những nhiệm vụ này thường có liên quan đến việc sử dụng quân đội, và các lực lượng vũ trang nhằm kịp thời xử lý, khắc phục các thiệt hại và mau chóng đưa tình trạng trở lại bình thường.

Tóm lại, từ những điều phân tích nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng, sự hiện diện của UBTVQH gắn liền với vị trí, vai trò của Quốc hội Việt Nam và Trung Quốc hiện nay. UBTVQH vừa là thực thể của Quốc hội, vừa là cơ quan có một ví trí tương đối độc lập. Ở Việt Nam, từ khi được tái thành lập theo Hiến pháp năm 1992, UBTVQH ngày càng có xu hướng nghiêng về cơ quan thường trực, đảm trách các công việc thường trực, đảm bảo các hoạt động thường xuyên của Quốc hội. Trong tương lai không xa nữa, khi Quốc hội hoạt động chuyên trách, thường xuyên, những phần việc mà UBTVQH đang đảm trách thay mặt cho Quốc hội sẽ ngày càng giảm đi. UBTVQH sẽ dần chuyển thành cơ quan có nhiệm vụ thường trực đảm bảo các hoạt động thường xuyên của Quốc hội, chủ yếu là điều hành các kỳ họp của Quốc hội và ký chứng thực các văn bản của Quốc hội đã ban hành...

Đặng Phương Hải

Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội





[1]. Điều 69 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[2]. Hiến pháp năm 1982 là bản Hiến pháp hiện hành của Trung Quốc, được ban hành ngày 04/12/1982, tại Hội nghị lần thứ 5 Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 5. Hiến pháp được tu chính 04 lần (1988, 1993, 1999, 2004). Được gọi là Hiến pháp Bát Nhị.

[3]. How China is ruled: National People’s Congress, nguồn: http://www.bbc.com/news/world-asia-pacific-13908155, đăng ngày 08/10/2012.

[4]. Điều 60 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[5]. Điều 59 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[6]. How China is ruled: National People’s Congress, tlđd.

[7]. Khoản 1 Điều 73 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[8]. Khoản 2 Điều 73 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[9]. Khoản 2 Điều 44 Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014.

[10]. Khoản 3 Điều 73 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[11]. Điều 65 và 70 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[12]. Văn phòng Quốc hội, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế bảo hiến, Nxb. Thời đại, 2009, tr. 21.

[13]. Điều 67 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982, Văn phòng Quốc hội, Nxb. Thống kê, 2009.

[14]. Điều 67 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[15]. Khoản 3 Điều 74 Hiến pháp Việt Nam năm 2013; khoản 1 Điều 67 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[16]. Khoản 7 Điều 74 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[17]. Khoản 7 Điều 67 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

[18]. Khoản 9, 10 Điều 74 Hiến pháp Việt Nam năm 2013.

[19]. Khoản 18 - 20 Điều 67 Hiến pháp Trung Quốc năm 1982.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thế chấp tài sản số từ kinh nghiệm pháp luật quốc tế và một số quốc gia

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số nội dung cơ bản về thế chấp bằng tài sản số trong pháp luật quốc tế và của một số quốc gia; từ đó, kiến nghị một số chính sách để Việt Nam có thể nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hành lang pháp lý phù hợp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, giúp kinh tế tư nhân phát triển mạnh và bền vững hơn.
Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích một số vấn đề lý luận như khái niệm, quan điểm và yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng đội ngũ công chức, viên chức tư pháp địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Quy định về quyền bề mặt theo pháp luật dân sự Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về quyền bề mặt qua các thời kỳ; chỉ ra một số bất cập trong quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về quyền bề mặt ở Việt Nam thời gian qua; từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.
Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích các mô hình lập pháp và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc đổi mới quy trình lập pháp; trên cơ sở đó, liên hệ và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện mô hình, quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, kết tinh giá trị của thời đại, phản ánh tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh, là thành quả của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của toàn dân tộc. Bài viết phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và đánh giá việc kế thừa, phát triển những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi