1. Sự cần thiết, mục tiêu và quan điểm chỉ đạo xây dựng Bộ luật Hình sự năm 2015
1.1. Sự cần thiết ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 1999 sau 14 năm thi hành đã bộc lộ những bất cập, hạn chế chủ yếu sau:
Thứ nhất, mặc dù được ban hành sau thời điểm Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới nhưng Bộ luật Hình sự năm 1999 là sản phẩm mang đậm dấu ấn của thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy, chưa thực sự phát huy tác dụng bảo vệ và thúc đẩy nền minh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển một cách lành mạnh.
Thứ hai, do ban hành từ năm 1999, nên BLHS chưa thể chế hoá được những quan điểm, chủ trương mới của Đảng về cải cách tư pháp được thể hiện trong Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (Nghị quyết số 08/NQ-TW); Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 (Nghị quyết số 48/NQ-TW) và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (Nghị quyết số 49/NQ-TW).
Thứ ba, sự ra đời và phát triển của Hiến pháp năm 2013 về việc ghi nhận và đảm bảo thực hiện các quyền con người, quyền công dân đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả hệ thống pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự với tính cách là công cụ pháp lý quan trọng và sắc bén nhất trong việc bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
Thứ tư, BLHS năm 1999 chưa cập nhật được đầy đủ, kịp thời các hành vi vi phạm có tính chất phổ biến, nguy hiểm cao cho xã hội: các hành vi lạm dụng lao động trẻ em; chiếm đoạt, mua bán trái phép mô tạng, các bộ phận cơ thể người; vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ; lợi dụng bán hàng đa cấp để chiếm đoạt tiền, tài sản; các vi phạm trong các lĩnh vực ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, môi trường, công nghệ cao…
Thứ năm, BLHS năm 1999 chưa phản ánh được những đặc điểm và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiện hội nhập quốc tế, chưa tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, đòi hỏi phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung BLHS để nội luật hóa các quy định về hình sự trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên nhằm thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của quốc gia thành viên và tăng cường hợp tác quốc tế trong phòng, chống tội phạm.
Thứ sáu, BLHS 1999 còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm...
1.2. Mục tiêu
Mục tiêu của việc xây dựng BLHS năm 2015 là nhằm xây dựng một Bộ luật phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013; Phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; Góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta.
1.3. Quan điểm chỉ đạo
Việc xây dựng Bộ luật hình sự năm 2015 đã quán triệt 05 quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, thể chế hóa đầy đủ, toàn diện các chủ trương, đường lối của Đảng về Cải cách Tư pháp, đặc biệt là chủ trương: "Đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng".
Hai là, bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đặc biệt là tạo ra cơ chế hữu hiệu để bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, góp phần bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm mọi người được sống trong một môi trường an toàn, lành mạnh; đồng bộ với các luật, bộ luật đã được ban hành (như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hôn nhân và Gia đình...) cũng như các luật, dự luật đang được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới như các luật về quyền con người, quyền công dân.
Ba là, kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của Bộ luật Hình sự năm 1999 trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự; bổ sung những quy định mới để giải quyết những vướng mắc, bất cập đang đặt ra trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp hình sự của một số nước trong khu vực và trên thế giới.
Bốn là, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc thực hiện các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, đồng thời, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Năm là, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hìn sự nhằm bảo đảm tính thống nhất nội tại của Bộ luật Hình sự và tính thống nhất của hệ thống pháp luật; nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo của Bộ luật Hình sự.
2. Những định hướng cơ bản xây dựng Bộ luật Hình sự năm 2015
Xuất phát từ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo nêu trên, Bộ luật Hình sự năm 2015 dược xây dựng dựa trên 05 định hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách hình sự theo hướng đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Đây là định hướng thể hiện rõ tính nhân đạo của chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong việc xử lý người phạm tội.
Thứ hai, thể chế hóa về mặt hình sự chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng này nhằm khắc phục cơ bản những bất cập, hạn chế của BLHS năm 1999 đã và đang gây trở ngại cho sự phát triển của nền kinh tế và nhằm xây dựng khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho cơ chế kinh tế thị trường vận hành theo đúng các quy luật của nó và đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, góp phần làm an tâm cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế.
Thứ ba, đổi mới nhận thức về chính sách hình sự mà trọng tâm là đổi mới quan niệm về tội phạm và hình phạt, về cơ sở của trách nhiệm hình sự, về chính sách xử lý đối với một số loại tội phạm và loại chủ thể phạm tội nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Thứ tư, nội luật hóa những qui định có liên quan của các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế liên quan đến phòng, chống tội phạm. Định hướng này tạo điều kiện cho việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế trong các điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, nhất là các điều ước quốc tế có liên quan đến phòng, chống tội phạm, như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia; Công ước chống tham nhũng; Nghị định thư về phòng ngừa, trừng trị, trấn áp tội buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em; Công ước chống tra tấn và trừng phạt hoặc đối xử tàn nhẫn, vô nhân đạo làm mất phẩm giá khác; Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979; Công ước Luật Biển năm 1982; các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF), đồng thời, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ năm, hoàn thiện kỹ thuật lập pháp hình sự theo hướng nâng cao tính minh bạch, khả thi và tính dự báo trong các quy định của BLHS; bảo đảm tính thống nhất nội tại của BLHS và tính thống nhất của BLHS với các Luật khác. Đây là một định hướng mang tính chuyên môn kỹ thuật nhằm tạo ra một diện mạo mới về kỹ thuật lập pháp của BLHS trên cơ sở khắc phục những bất cập, kế thừa những điểm tiến bộ về kỹ thuật của BLHS năm 1999, làm cho BLHS mới có tính lôgic, nhất quán, minh bạch và mang tính dự báo cao.
3. Những nội dung mới cơ bản của Bộ luật Hình sự năm 2015
3.1. Những quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng theo tinh thần đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù theo hướng phạt tiền là hình phạt chính không chỉ được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng như quy định của BLHS năm 1999 mà cả trường hợp phạm các tội nghiêm trọng. Riêng đối với nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, môi trường thì phạt tiền là hình phạt chính có thể áp dụng đối với tội rất nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, BLHS đã mở rộng nội hàm của hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, trong trường hợp người bị phạt cải tạo không giam giữ không có việc làm hoặc bị mất việc làm trong thời gian chấp hành hình phạt này thì phải thực hiện một số công việc lao động phục vụ cộng đồng trong thời gian cải tạo không giam giữ với thời gian lao động phục vụ cộng đồng không quá 04 giờ trong một ngày và không quá 05 ngày trong một tuần. Biện pháp này không áp dụng đối với người già yếu, phụ nữ có thai. Bộ luật cũng đã mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, theo đó, hình phạt này được áp dụng cả đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng.
Đồng thời, đối với hình phạt tù, Bộ luật khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tôi ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 37), theo đó, tại Phần các tội phạm, số lượng các khoản không quy định hình phạt tù tăng từ 06 khoản lên 31 khoản so với quy định của Bộ luật Hình sự năm 199.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình phạt tử hình được khẳng định tại các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, đặc biệt là Nghị quyết số 49/NQ-TW và bám sát tinh thần nội dung quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền sống của con người, theo đó, Điều 40 của Bộ luật Hình sự đã xác định rõ tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật này quy định.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật này đã bổ sung thêm trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình đối với người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi xét xử; đồng thời bổ sung thêm 02 trường hợp không thi hành án tử hình là: (i) Người đủ 75 tuổi trở lên; (ii) Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn thì không thi hành án tử hình đối với họ. Quy định này nhằm góp phần hạn chế tử hình trên thực tế.
BLHS năm 2015 đã bỏ tử hình ở 07 tội danh: (1) Cướp tài sản; (2) Sản xuất, buôn bán hàng cấm là lương thực, thực phẩm; (3) Tàng trữ trái phép chất ma túy; (4) Chiếm đoạt chất ma túy1; (5) Phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; (6) Chống mệnh lệnh; (7) Đầu hàng địch. Đồng thời, Bộ luật cũng đã bỏ tội danh hoạt động phỉ trước đây có quy định hình phạt tử hình. Như vậy, BLHS năm 2015 vẫn còn duy trì hình phạt tử hình đối với 18 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS năm 2015 (chiếm tỷ lệ 5,73%) thuộc 07/14 nhóm tội phạm2, giảm 11 tội danh (gần 06%) so với BLHS năm 1999 và giảm 04 tội danh (gần 03%) so với BLHS (sửa đổi năm 2009)3.
Thứ ba, BLHS năm 2015 có sự điều chỉnh mạnh mẽ trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, đặc biệt là đối với các em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi theo hướng bảo đảm lợi ích tốt nhất cho các em trên tinh thần bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong lứa tuổi thanh thiếu niên, cụ thể là: Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, Bộ luật đã thu hẹp đáng kể phạm vi trách nhiệm hình sự của đối tượng này, theo đó, các em chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thuộc 28 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 8,91%) thuộc 04 nhóm tội phạm: (1) Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; (2) Các tội xâm phạm sở hữu; (3) Các tội phạm về ma túy; (4) Các tội xâm phạm an toàn công cộng. Ngoài ra, các em cũng chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 02 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 0,63%)5. Đó là: Tội giết người và tội cướp tài sản. Như vậy, có thể thấy, trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ nghiêm trọng và tính phổ biến của hành vi phạm tội do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi gây ra trong thời gian qua cũng như dự báo trong thời gian tới, BLHS năm 2015 đã xác định nhóm các tội danh mà các em trong độ tuổi này phải chịu trách nhiệm hình sự (kể cả trường hợp chuẩn bị phạm tội) chủ yếu tập trung vào các tội gây hậu quả cho tính mạng, sức khỏe con người và an toàn công cộng.
BLHS năm 2015 cũng đã cụ thể hóa các điều kiện miễn trách nhiệm hình sự áp dụng riêng cho từng đối tượng người chưa thành niên (người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi), đồng thời, bổ sung 03 biện pháp giám sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp các em được miễn trách nhiệm hình sự. Đó là: (1) Khiển trách; (2) Hòa giải tại cộng đồng; (3) Biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Bộ luật cũng quy định rõ điều kiện áp dụng từng biện pháp cụ thể nêu trên.
Một điểm mới đáng lưu ý trong chính sách hình sự đối với người chưa thành niên là BLHS năm 2015 quy định rõ trong 03 trường hợp người chưa thành niên bị kết án được coi là không có án tích: (1) Người bị kết án là người đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; (2) Người bị kết án là người đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án do lỗi vô ý về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng; (3) Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp tư pháp (giáo dục tại trường giáo dưỡng). Ngoài 03 trường hợp nêu trên, thì theo Điều 69 của BLHS, người chưa thành niên bị kết án nhưng được miễn hình phạt cũng không bị coi là có án tích.
Thứ tư, theo BLHS năm 1999 thì phạm vi chịu trách nhiệm hình sự đối hành vi chuẩn bị phạm tội là khá rộng, bao gồm chuẩn bị phạm bất cứ tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng nào được quy định trong BLHS. BLHS năm 2015 đã thu hẹp đáng kể phạm vi xử lý hình sự đối với người có hành vi chuẩn bị phạm tội, theo đó, người có hành vi chuẩn bị phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 25 tội danh trong số 314 tội danh được quy định trong BLHS (chiếm tỷ lệ 7,96%) thuộc 05 nhóm tội phạm (các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế và các tội xâm phạm an toàn công cộng).
Thứ năm, BLHS năm 2015 đã bổ sung chế định tha tù trước hạn có điều kiện với những quy định hết sức chặt chẽ nhằm tạo cơ hội cho những phạm nhân tích cực cải tạo tốt trong quá trình chấp hành án ở các cơ sở giam giữ được sớm trở về với gia đình và tiếp tục chứng tỏ sự cải tạo của mình trong môi trường xã hội bình thường có sự giám sát của chính quyền địa phương và xã hội. Nếu trong thời gian thử thách mà người được tha tù trước hạn cố ý vi phạm nghĩa vụ hoặc phạm tội mới thì phải trở lại cơ sở giam giữ để chấp hành tiếp phần hình phạt tù còn lại chưa chấp hành. Quy định này góp phần thực hiện chủ trương của Đảng về việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trong môi trường xã hội.
Thứ sáu, BLHS năm 2015 đã kế thừa và phát triển những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế trong xã hội, theo đó, Bộ luật quy định giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng phạm tội là: (1) Người đủ 70 tuổi trở lên; (2) Phụ nữ có thai; (3) Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; (4) Người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; (5) Cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng. Đồng thời, Bộ luật cũng có chính sách tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội xâm hại đến những đối tượng như: (1) Người ở trong tình trạng không thể tự vệ được; (2) Người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; (3) Người bị hạn chế khả năng nhận thức; (4) Người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác; (5) Người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên.
Thứ bảy, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người (Chương XIV), nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân (Chương XV) và nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXIV) theo hướng tiếp tục tăng cường bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên tinh thần Hiến pháp năm 2013 với những chế tài nghiêm khắc; bổ sung một số quy định mới để xử lý hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân, đồng thời, có chính sách xử lý nghiêm khác hơn đối với các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân.
3.2. Những quy định của BLHS năm 2015 góp phần bảo vệ và thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thứ nhất, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự nước ta, chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại đã được bổ sung vào BLHS, và được thể hiện tập trung tại Chương XI của BLHS, gồm 16 điều (từ Điều 74 - 89) và trong 08 điều khác thuộc Phần những quy định chung của Bộ luật (các Điều 2, 3, 8, 9, 33, 35, 46 và 60) cũng như 33 điều thuộc Phần các tội phạm cụ thể của Bộ luật. Đây là điểm đổi mới nổi bật, mang tính đột phá trong chính sách hình sự nước ta, làm thay đổi nhận thức truyền thống về vấn đề tội phạm và hình phạt.
Phải nói rằng, việc bổ sung chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân vào BLHS xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn và là kết quả của gần 16 năm (từ 1999 đến nay) kiên trì, bền bỉ nghiên cứu, đề xuất của Chính phủ và đã được Quốc hội chấp thuận nhằm góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc xử lý các vi phạm pháp luật của pháp nhân trong thời gian qua, nhất là những vi phạm trong các lĩnh vực kinh tế và môi trường, đồng thời tạo điều kiện bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người bị thiệt hại do các vi phạm của pháp nhân gây ra.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, hết sức phức tạp, do vậy, để bảo đảm sự thận trọng trong việc quy định chính sách mới, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của một số nước, BLHS năm 2015 đã xác định rõ giới hạn áp dụng chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân theo hướng hẹp cả về chủ thể lẫn về loại tội mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
- Về chủ thể, Điều 2 của BLHS quy định chế định này chỉ áp dụng đối với pháp nhân thương mại;
- Về loại tội, Bộ luật (Điều 76) quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 33 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS (chiếm tỷ lệ 10,50%), trong đó có 22 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về kinh tế, 09 tội danh thuộc nhóm các tội phạm về môi trường và chỉ có 02 tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đồng thời, Bộ luật (Điều 75) cũng quy định rõ 04 điều kiện để một pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, bao gồm: hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
Hệ thống chế tài áp dụng đối với pháp nhân phạm tội được quy định tại Điều 33 và Điều 46 của BLHS bao gồm:
- 03 hình phạt chính: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;
- 03 hình phạt bổ sung: Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.
- 04 biện pháp tư pháp: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi; buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu; buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra).
Thứ hai, BLHS năm 2015 (chương XVIII) đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế theo hướng phi tội phạm hóa đối với 04 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999. Đó là các tội: (1) kinh doanh trái phép; (2) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (3) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (4) sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; đồng thời, bổ sung 16 tội danh mới trong các lĩnh vực kinh tế, trong đó, tội vi phạm quy định kinh doanh theo phương thức đa cấp (Điều 217a) được bổ sung theo Luật số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017. Đặc biệt, Bộ luật quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 22 tội danh trong chương này. Đó là các tội thuộc lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, lưu thông hành hóa; thuế, chứng khoán, bảo hiểm và các lĩnh vực kinh tế khác. Ngoài ra, Bộ luật cũng tăng phạt tiền với tính cách là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.
Thứ ba, để cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013, đồng thời tạo một môi trường kinh doanh minh bạch, tránh sự tùy tiện trong áp dụng, trên cơ sở cân nhắc kỹ kết quả tổng kết thực tiễn xét xử về Tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong những năm qua, đồng thời, rà soát quy định của các luật chuyên ngành trên các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các tội danh hiện có trong Chương XVIII - Các tội xâm phạm trật tự kinh tế (gồm 38 điều), Bộ luật hình sự đã thay thế Điều 165 BLHS hiện hành bằng 09 tội danh mới thuộc các lĩnh vực: quản lý cạnh tranh, đầu tư công; quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; đấu thầu; đấu giá tài sản; kế toán; quản lý thuế; xây dựng; bồi thường thu hồi đất, quy định cụ thể tại các điều: 217, 218, 219, 220, 221, 222, 223, 224 và Điều 230 của Bộ luật hình sự. Đồng thời, bổ sung một số tội danh nhằm đấu tranh chống các hành vi nguy hiểm mới phát sinh trong nền kinh tế thị trường trong các lĩnh vực như: vi phạm quy định về cạnh tranh, vi phạm quy định về kinh doanh đa cấp...
Thứ tư, BLHS năm 2015 (chương XIX) đã sửa đổi cơ bản nhóm các tội phạm về môi trường theo hướng cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường; quy định chế tài nghiêm khắc đối với các tội phạm về môi trường, trong đó có việc tăng mức phạt tiền (cả phạt chính và phạt bổ sung); đồng thời, bổ sung tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bở, bãi song (Điều 238). Đặc biệt, Bộ luật quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 09 tội danh trong chương này. Đó là những tội phạm gây ô nhiễm cho môi trường, hủy hoại các loài động vật, thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái.
3.3. Những quy định của BLHS năm 2015 góp phần khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm; tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả trong tình hình mới; góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng
Thứ nhất, để bảo đảm phù hợp và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong điều kiến mới, BLHS đã phi tội phạm hóa đối với 06 tội danh được quy định trong BLHS năm 1999. Đó là các tội: (1) Tảo hôn; (2) Kinh doanh trái phép; (3) Báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (4) Vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (5) Sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; (6) Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Thứ hai, cùng với việc phi tội phạm hóa, BLHS năm 2015 đã bổ sung 34 tội danh mới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo đó, ngoài 17 tội danh về kinh tế, môi trường mới được bổ sung như đã nêu trên, Bộ luật còn bổ sung 17 tội danh mới thuộc 07 nhóm tội phạm khác, đặc biệt là nhóm tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông đang có chiều hướng gia tăng.
Thứ ba, Bộ luật (Chương XVI) đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu theo hướng bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; tăng mức phạt tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu; đồng thời, cụ thể hóa hành vi phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với các tội phạm thuộc nhóm này, nhất là cụ thể hóa trường hợp xử lý hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức định lượng tối thiểu 02 triệu đồng nhằm góp phần bảo vệ tài sản của nhân dân, nhất là người nghèo (quy định tại khoản 1 các Điều: 173, 174 BLHS.
Thứ tư, BLHS năm 2015 đã bổ sung một chương riêng (chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26) nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn để khuyến khích người dân an tâm, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung.
Thứ năm, BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thể hiện ở ba điểm cơ bản: (1) Điều 28 của Bộ luật đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm truy đến cùng những tội phạm tham nhũng lớn, góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; (2) Điều 61 của Bộ luật đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu thi hành bản án đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; (3) BLHS đã mở rộng phạm vi một số tội tham nhũng cũng như một số tội thuộc Chương XXIII. Các tội phạm về chức vụ ra cả khu vực tư (ngoài Nhà nước), theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà thực hiện hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ thì cũng bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các điều 353, 354 của BLHS. Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới hối lộ theo quy định tại các điều 364, 365 của BLHS. Quy định này nhằm góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, đồng thời, cũng để thực thi Công ước về chống tham nhũng mà nước ta là thành viên.
3.4. Những quy định của BLHS năm 2015 nhằm nội luật hóa các qui định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm
Thứ nhất, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội theo hướng bên cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã được quy định trước đây (như: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm), còn bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể (Điều 14). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm, đồng thời phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.
Thứ hai, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi (các Điều 150, 151) trên tinh thần Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.
Thứ ba, Bộ luật đã bổ sung tội cưỡng bức lao động, tội bắt cóc con tin và tội cướp biển (các Điều 297, 301, 302) trên tinh thần các quy định của Công ước số 29 của ILO về lao động cưỡng bức năm 1930, Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.
Thứ tư, Bộ luật đã sửa đổi, bổ sung tội rửa tiền (Điều 324) và tội tài trợ khủng bố (Điều 300) nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về phòng, chống rửa tiền. Trong đó, như đã trình bày ở phần trên, tội rửa tiền (Điều 324) và tội tài trợ khủng bố (Điều 300) BLHS đã bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với hai tội này.
Thứ năm, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; tội dùng nhục hình và tội bức cung (các Điều 157, 373, 374) trên tinh thần Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục.
3.5. Những điều chỉnh cơ bản về mặt kỹ thuật lập pháp trong BLHS năm 2015
BLHS năm 2015 có những điều chỉnh về mặt kỹ thuật lập pháp theo hướng nâng cao tính minh bạch trong các quy định của BLHS; bảo đảm tính thống nhất về mặt kỹ thuật giữa Phần chung và Phần các tội phạm cụ thể của BLHS và giữa BLHS với các luật khác. Đáng chú ý là:
Thứ nhất, Bộ luật đã thay thế tội cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) bằng một loạt các tội danh cụ thể trong các lĩnh vực kinh tế, theo đó, bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung 15 tội danh có tính chất "cố ý làm trái" trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của BLHS năm 1999 cho phù hợp với tình hình mới15, BLHS năm 2015 còn bổ sung thêm một số tội danh mới trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, bao quát các lĩnh vực thường hay xảy ra vi phạm.
Thứ hai, Bộ luật đã cụ thể hóa tối đa các dấu hiệu định tội, định khung mang tính chất định tính, trừu tượng (về hậu quả, thu lợi bất chính, số lượng...) trong cấu thành của hầu hết các tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về kinh tế, môi trường, các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự, nhân phẩm con người, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trên cơ sở rà soát các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS hiện hành, lựa chọn những nội dung hướng dẫn về các tình tiết này đã được thực tiễn kiểm nghiệm, khẳng định là còn phù hợp nhằm tăng tính minh bạch, rõ ràng của BLHS.
Thứ ba, Bộ luật đã tách một số các tội phạm ghép trong BLHS năm 1999 thành các tội danh độc lập để có sự phân hóa trong chính sách xử lý.
Như vậy, BLHS năm 2015 đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật hình sự nước ta, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm có hiệu quả; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước và tổ chức, bảo vệ bảo vệ và thúc đẩy kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân.
Với những nội dung đổi mới cơ bản như trên, BLHS năm 2015 sẽ có những tác động lớn đến mọi mặt đời sống xã hội, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta.