Thứ sáu 05/12/2025 17:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật về quấy rối tình dục tại nơi làm việc - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bài viết nghiên cứu thực tiễn xây dựng và áp dụng pháp luật dựa trên các trường hợp thực tế về tình trạng quấy rối tình dục tại nơi làm việc để đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu quấy rối tình dục tại nơi làm việc.

1. Vài nét khái quát về quấy rối tình dục tại nơi làm việc

1.1. Nhận diện quấy rối tình dục tại nơi làm việc

Quấy rối tình dục (QRTD) tại nơi làm việc được coi là chủ đề tế nhị khi được đề cập đến và thảo luận trước công chúng. Những năm gần đây, vấn đề về QRTD tại nơi làm việc đã bắt đầu thu hút được nhiều sự quan tâm từ người dân Việt Nam và cả thế giới. Bằng chứng là, khi nhập cụm từ QRTD tại nơi làm việc trên thanh tìm kiếm của Google, trong vòng 0,32 giây đã cho ra hơn 1.620.000 kết quả có liên quan.

Nhận ra mối nguy hại đến từ hành vi QRTD, Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật nhận diện và xử lý hành vi này, trong đó, Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật Lao động năm 2019 và văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định nghiêm cấm hành vi QRTD về biện pháp phòng, chống QRTD tại nơi làm việc.

QRTD là một hình thức phân biệt đối xử dựa trên giới, bản dạng giới, biểu hiện giới tính hoặc xu hướng tính dục. Các cá nhân thuộc bất kỳ giới tính nào cũng có thể trở thành nạn nhân của QRTD[2].

Theo quy định tại Điều 3 Đạo luật Bảo vệ khỏi hành động quấy rối năm 2014 của Singapore, quấy rối tại nơi làm việc là khi đối tượng thể hiện hành vi gây ra hoặc có khả năng gây ra sự quấy rối, sự lo lắng, sợ hãi hoặc gây nỗi buồn, sự đau khổ cho nạn nhân. Hành vi có thể là quấy rối tại nơi làm việc ở Singapore bao gồm đe doạ, lạm dụng, sỉ nhục, quay lén, đụng chạm vào cơ thể trái ý muốn...

Tại Anh, Đạo luật Bình đẳng năm 2010 định nghĩa, QRTD là hành vi xảy ra một lần hoặc liên tục, bao gồm tán tỉnh, nhận xét khiếm nhã về cơ thể, quần áo, ngoại hình; đặt câu hỏi về đời sống tình dục của người khác, đưa ra nhận xét hoặc đùa cợt về khuynh hướng tình dục, giới tính; chạm vào ai đó trái với ý muốn của họ. Nó có thể xảy ra trực tiếp hoặc xảy ra theo những hình thức khác như gửi email, nhắn tin...

Trong khi đó, tại Mỹ, Ủy ban Cơ hội việc làm công bằng (EEOC) định nghĩa, QRTD là hành vi dùng lời ve vãn tình dục, yêu cầu quan hệ tình dục trái ý muốn của người khác; có cử chỉ, lời nói gợi ý về tình dục mà thái độ phục tùng hay phản đối của cá nhân được gợi ý có liên quan đến quyền lợi, công việc, môi trường làm việc của cá nhân đó.

Ở Việt Nam, theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019, “QRTD tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động”. Hành vi này có thể xảy ra dưới dạng trao đổi như đề nghị, yêu cầu, gợi ý, đe dọa, ép buộc đổi quan hệ tình dục lấy bất kỳ lợi ích nào liên quan đến công việc; hoặc những hành vi có tính chất tình dục không nhằm mục đích trao đổi nhưng khiến môi trường làm việc trở nên khó chịu và bất an, gây tổn hại về thể chất, tinh thần, hiệu quả công việc và cuộc sống của người bị quấy rối. Hành vi QRTD được liệt kê cụ thể tại khoản 2 Điều 84 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động (Nghị định số 145/2020/NĐ-CP) như sau: (i) Hành vi mang tính thể chất gồm hành động, cử chỉ, tiếp xúc, tác động vào cơ thể mang tính tình dục hoặc gợi ý tình dục; (ii) QRTD bằng lời nói gồm lời nói trực tiếp, qua điện thoại hoặc qua phương tiện điện tử có nội dung tình dục hoặc có ngụ ý tình dục; (iii) QRTD phi lời nói gồm ngôn ngữ cơ thể; (iv) Trưng bày, miêu tả tài liệu trực quan về tình dục hoặc liên quan đến hoạt động tình dục trực tiếp hoặc qua phương tiện điện tử.

Thuật ngữ “nơi làm việc” được quy định lần đầu trong Bộ quy tắc ứng xử về QRTD tại nơi làm việc được ban hành vào ngày 25/5/2015 bởi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (nay là Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - VCCI) và được luật hóa trong Bộ luật Lao động năm 2019, Nghị định số 145/2020/NĐ-CP. Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019, nơi làm việc là địa điểm, không gian mà người lao động phải có mặt để thực hiện công việc theo thỏa thuận hoặc theo yêu cầu của người sử dụng lao động, là bất cứ địa điểm nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động, bao gồm cả những địa điểm hay không gian có liên quan đến công việc như các hoạt động xã hội, hội thảo, tập huấn, chuyến đi công tác chính thức, bữa ăn, hội thoại trên điện thoại, các hoạt động giao tiếp qua phương tiện điện tử, phương tiện đi lại do người sử dụng lao động bố trí từ nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại, nơi ở do người sử dụng lao động cung cấp và địa điểm khác do người sử dụng lao động quy định.

Trước đó, nhiều quan điểm cho rằng, động chạm vào vùng nhạy cảm hay có quan hệ tình dục mà không có sự cho phép của người còn lại thì mới được xem là QRTD. Tuy nhiên, từ khi Bộ luật Lao động năm 2019, Nghị định số 145/2020/NĐ-CP được ban hành đã cho thấy cái nhìn khách quan hơn về vấn đề này. Theo đó, không chỉ động chạm vào vùng nhạy cảm hay có quan hệ tình dục mới được xem là hành vi QRTD mà những cử chỉ khác như sờ mó, vuốt ve… hay thậm chí là cái liếc mắt, nháy mắt nếu nhằm mục đích xấu mà đối phương cảm thấy khó chịu thì cũng được xem là một dạng của hành vi QRTD.

Trên cơ sở phân tích các khái niệm đã nêu trên, có thể thấy, QRTD tại nơi làm việc là hành vi mang tính chất tình dục hoặc mang ý gợi dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà người đó không mong muốn và không chấp nhận. QRTD tại nơi làm việc có thể xảy ra dưới các hành vi như lời nói, phi lời nói, thị giác, ám thị, cử chỉ, hành động với mục đích tình dục, gây mất thoải mái hoặc ảnh hưởng đến môi trường làm việc. Hành vi đó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần, cảm xúc của người bị quấy rối mà còn gây bất lợi đến hiệu suất làm việc cũng như năng suất lao động bị giảm sút. Nơi làm việc là bất kỳ địa điểm hoặc môi trường nào mà người lao động phải ở đó để thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ được giao.

1.2. Đặc điểm của quấy rối tình dục tại nơi làm việc

Thứ nhất, về chủ thể, thường là cá nhân, có thể là nam hoặc nữ, không phân biệt giới tính. Mặc dù không có quy định rõ ràng, tuy nhiên, nạn nhân của QRTD thường là nữ giới, vẫn có trường hợp người bị quấy rối là nam giới.

Thứ hai, về hành vi QRTD, được thể hiện qua nhiều hình thức khác nhau như bằng lời nói, phi lời nói hay các hành động mang tính thể chất. Các hành vi này được thực hiện và thường nhắm đến đối tượng cụ thể nhưng lại không nhận được sự đồng ý hay sự chấp nhận từ phía đối phương. QRTD phải được thể hiện dưới dạng hành động, nếu không thì rất khó để kết luận hành vi đó có được gọi là QRTD hay không, có gây ảnh hưởng đến người khác hay có thỏa mãn nhu cầu của người thực hiện hành vi quấy rối không.

Thứ ba, một hành vi bị coi là QRTD khi hành vi đó trái với mong muốn của đối phương (người tiếp nhận hành vi), có nghĩa là nạn nhân luôn thể hiện sự chống cự, thái độ cự tuyệt, không đồng ý với hành vi của người thực hiện hành vi quấy rối.

Thứ tư, địa điểm thực hiện quấy rối tại nơi làm việc rất đa dạng, không phải chỉ ở nơi làm việc chính của người lao động, mà còn ở phạm vi rộng hơn như các buổi hội nghị, chuyến đi công tác, gặp gỡ khách hàng và một số nơi khác.

Thứ năm, phạm vi bài nghiên cứu này đề cập đến nạn QRTD ở chốn công sở hay nơi làm việc. Ở những nơi này, cả người lao động và người sử dụng lao động, dù là nam hay nữ đều phải tuân thủ một số nguyên tắc về trang phục của nơi làm việc. Điều này cho thấy, yếu tố giới tính không phải là nguyên nhân của hành vi này, hay yếu tố trang phục thường được nhắc đến trong các vụ QRTD cũng không phải là yếu tố khiến nạn nhân bị thực hiện hành vi QRTD. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng, trong nhiều trường hợp, khi một vụ việc QRTD xảy ra, người QRTD thường có suy nghĩ lệch lạc và cho rằng, trang phục của nạn nhân mới là nguyên nhân chính để họ thực hiện hành vi và đổ lỗi ngược lại cho nạn nhân.

2. Thực trạng pháp luật về quấy rối tình dục tại nơi làm việc

Hiện nay, pháp luật Việt Nam về QRTD vẫn còn tồn tại một số bất cập. Bên cạnh đó, nhận thức về hành vi QRTD của người lao động, người sử dụng lao động chưa thực sự đầy đủ. Nạn nhân thường có tâm lý e dè, không dám tố giác hành vi QRTD khiến cho việc phát hiện và xử lý gặp nhiều khó khăn.

Một cuộc khảo sát của tổ chức quốc tế với khoảng 1.000 nữ công nhân ngành may mặc đã cho thấy, tình trạng QRTD tại Việt Nam là rất khẩn cấp và đáng báo động. Có đến khoảng 87,7% đã từng bị bạo lực hoặc quấy rối bằng lời nói; có đến 34,3% từng bị quấy rối, xâm phạm thân thể; 29% bị quấy rối bằng hình thức phi ngôn ngữ như cử chỉ gợi dục; 10% bị đe dọa chấm dứt hợp đồng, giữ lương nếu tố giác hoặc phản ứng; có đến 10% được hứa hẹn đổi tình dục để thăng chức[3].

Bên cạnh đó, cũng có một số chia sẻ xoay quanh vấn nạn QRTD khi người bị quấy rối lại trở thành tâm điểm của sự chỉ trích thay vì những đối tượng thực hiện hành vi quấy rối. Trên thực tế, khi một vụ QRTD xảy ra, thay vì lên án, chỉ trích người thực hiện hành vi quấy rối, thì lại có một số người lại cố gắng móc nối một cách mặc nhiên và vô cảm đến trang phục nạn nhân đã mặc với sự việc mà họ gặp phải mà không quan tâm về đạo đức, nhân cách của đối tượng có hành vi quấy rối[4].

Dù đã có một số khảo sát về vấn đề QRTD tại nơi làm việc, tuy nhiên vẫn chưa có nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của các số liệu hiện có và vẫn chưa có nghiên cứu toàn diện nào về tác động hoặc phạm vi của QRTD tại Việt Nam, cùng với đó là những quan điểm sai lệch đổ lỗi cho nạn nhân. Chính bởi tình trạng này mà vấn nạn QRTD vẫn tiếp tục có những trường hợp không được báo cáo và có thể lan rộng.

QRTD được quy định lần đầu trong Bộ luật Lao động năm 2012 và được hoàn thiện hơn tại Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về QRTD tại nơi làm việc vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như sau:

Thứ nhất, quy định về các hình thức QRTD còn chung chung, chưa rõ ràng, khó nhận diện hành vi trên thực tế, ví dụ như, quy định về QRTD bằng ngôn ngữ cơ thể theo Điều 84 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP. Điều này khiến người lao động không hiểu rõ về hành vi quấy rối, vì vậy, gây khó khăn trong việc bảo vệ bản thân; các doanh nghiệp cũng khó xác định được hành vi quấy rối, gây khó khăn trong việc xây dựng quy tắc cụ thể về QRTD trong đơn vị mình. Ngoài ra, khi chưa có định nghĩa cụ thể, đội ngũ thanh tra lao động cũng rất khó áp dụng pháp luật để xử lý các vụ việc khi có yêu cầu. Thậm chí, luật sư cũng khó có thể xác định hành vi nào được coi là QRTD nơi làm việc[5]. Có thể thấy, các quy định của pháp luật chỉ đang nhận diện một cách cơ bản và mà chưa nêu rõ tiêu chí xác định về hành vi QRTD tại nơi làm việc.

Thứ hai, khi có hành vi QRTD xảy ra, nạn nhân muốn tố cáo phải có đầy đủ những chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm đó. Tuy nhiên, trên thực tế, điều này rất khó để chứng minh, vì hành vi này xảy ra bất chợt, khó lường trước, phụ thuộc vào mục đích của người QRTD, nạn nhân rất khó có thể ứng biến kịp thời nhằm thu thập chứng cứ. Ngoài ra, người thực hiện hành vi QRTD thường chọn những địa điểm vắng vẻ, ít người chú ý hoặc ở những nơi góc khuất của camera để thực hiện hành vi đồi bại nên việc tìm chứng cứ chứng minh lại càng khó khăn. Trong khi đó, nếu như tố cáo nhưng bằng chứng chứng minh không đầy đủ dẫn tới việc tố cáo không thành sẽ có thể gây ra tình trạng “trả đũa” của người gây ra hành vi QRTD.

Thứ ba, trường hợp xử lý kỷ luật sa thải vì hành vi QRTD tại nơi làm việc, pháp luật hiện hành trao quyền cho người sử dụng lao động quy định trong nội quy lao động. Theo quy định tại khoản 2 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019, người sử dụng lao động được quyền xử lý kỷ luật lao động nhưng chỉ được áp dụng trong trường hợp hành vi QRTD này được quy định trong nội quy lao động, có nghĩa là, quyền quyết định thuộc về người sử dụng lao động. Điều này mang tính chủ quan, phụ thuộc hoàn toàn vào ý chí của người sử dụng lao động, có thể dẫn đến việc một số doanh nghiệp không quan tâm cũng như không có quy định rõ ràng về vấn đề QRTD trong nội quy lao động nên thiếu khách quan trong quá trình xử lý.

3. Một số khuyến nghị

Thứ nhất, cần đưa ra khái niệm QRTD một cách rõ ràng, đồng thời quy định cụ thể cách thức nhận diện hành vi QRTD tại nơi làm việc. Cần ban hành văn bản riêng biệt quy định về QRTD tại nơi làm việc hoặc sổ tay hướng dẫn người sử dụng lao động và người lao động tham khảo, áp dụng. Ngoài ra, khái niệm QRTD trong Bộ luật Lao động cũng cần bao gồm cả hành vi QRTD có đi có lại (có sự trao đổi qua lại) và hành vi QRTD tạo ra môi trường làm việc thù địch, tức là hành vi quấy rối liên quan đến việc trao đổi trực tiếp các lợi ích về tình dục để đổi lấy lợi ích trong công việc hoặc nghề nghiệp (quấy rối có đi có lại) và những hành vi không mong muốn, những lời bình luận, nhận xét hoặc hành vi phi lời nói mang tính chất tình dục dẫn đến môi trường làm việc không thoải mái hoặc không an toàn. Việc hoàn thiện khái niệm QRTD, cách nhận dạng, mô tả hành vi QRTD trong những quy định pháp luật là một giải pháp quan trọng.

Thứ hai, trên thực tế việc thu thập cũng như tìm kiếm chứng cứ chứng minh gặp nhiều khó khăn, hoặc người quấy rối cố tình thực hiện những hành vi không để lại dấu tích trên người nạn nhân hay tại hiện trường. Vì vậy, cần trang bị nhiều thiết bị giám sát ở những nơi góc khuất, dễ bị các đối tượng nhắm đến để thực hiện hành vi. Bên cạnh đó, người sử dụng lao động cần quan tâm đến quá trình làm việc của người lao động để có thể nắm bắt kịp thời tình trạng của họ, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn.

Thứ ba, cần quy định trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc phòng chống QRTD tại nơi làm việc. Một trong những giải pháp hiệu quả để ngăn chặn QRTD tại nơi làm việc là người sử dụng lao động nên có các chính sách về phòng, chống QRTD tại nơi làm việc và quy định rõ ràng trong nội quy công ty. Hiện nay, vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp không quan tâm cũng như không có nội quy, quy định hoặc có quy định nhưng chỉ mang tính đối phó. Song, pháp luật lao động hiện hành lại trao quyền quyết định cho người sử dụng lao động. Vì vậy, cần có những quy định rõ ràng hơn để ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động trong ứng phó và phòng ngừa QRTD tại nơi làm việc. Có thể nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc, liên quan đến vấn đề QRTD tại nơi làm việc được quy định trong Đạo luật Công bằng tình dục và quyền lợi điều tra ở nơi làm việc, một phần của Luật Quyền lao động, trong đó yêu cầu các tổ chức và doanh nghiệp phải thiết lập các chính sách và quy trình cụ thể để phòng chống QRTD tại nơi làm việc. Theo Luật Lao động Ấn Độ, bất kỳ người sử dụng lao động nào có hơn 10 nhân viên phải thành lập Ủy ban Khiếu nại nội bộ, tạo điều kiện cho bất kỳ nhân viên nữ nào cũng có thể tiếp cận để nộp đơn khiếu nại QRTD, do nữ lãnh đạo và phải có bên thứ ba từ tổ chức phi Chính phủ[6].

Thứ tư, nâng cao nhận thức cho người lao động về QRTD. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Công đoàn Việt Nam cần thường xuyên tổ chức các buổi tập huấn, chương trình truyền hình, tổ chức các cuộc thi, phổ biến cho người lao động hiểu rõ hơn về hành vi QRTD tại nơi làm việc cũng như các biện pháp phòng, chống và các hình thức xử lý đối với hành vi QRTD tại nơi làm việc. Đây không chỉ là hoạt động nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác đối với vấn nạn QRTD mà còn là hoạt động giúp người lao động có thể thực hành, đúc kết kinh nghiệm, từ đó có những biện pháp xử lý, ứng phó kịp thời với hành vi QRTD tại nơi làm việc, khuyến khích họ dũng cảm tố giác những kẻ có hành vi sai phạm.

Thứ năm, thành lập cơ quan chuyên trách trong việc tiếp nhận và giải quyết các vụ việc QRTD tại nơi làm việc. Có thể nghiên cứu, tham khảo pháp luật Hoa Kỳ, theo đó, QRTD tại nơi làm việc là hành vi vi phạm quyền lợi công dân và có thể bị kiện dựa trên Đạo luật Dân quyền năm 1964. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ còn có EEOC chịu trách nhiệm quản lý và bảo đảm thực thi các các quy định về phân biệt đối xử và QRTD tại nơi làm việc. EEOC có quyền tiếp nhận và điều tra các khiếu nại liên quan đến QRTD. Do đó, người lao động có thể dễ dàng khiếu nại, yêu cầu giải quyết hành vi QRTD bất cứ lúc nào tại EEOC. Hay tại Ấn Độ, mọi quận, huyện phải thành lập một Ủy ban địa phương để tiếp nhận khiếu nại của phụ nữ làm việc trong các công ty có dưới 10 nhân viên và từ khu vực phi chính thức.

Thứ sáu, thành lập các phòng tư vấn tâm lý, phục hồi sức khỏe tinh thần cho nạn nhân sau khi bị QRTD. Đối với những nạn nhân sau khi trải qua QRTD sẽ thường gặp nhiều vấn đề tâm lý, vì vậy, họ rất cần có sự quan tâm cũng như giúp đỡ từ doanh nghiệp. Sau những sự cố QRTD, việc thành lập một phòng tư vấn tâm lý cho nạn nhân bị QRTD là cần thiết. Phòng tư vấn không chỉ đơn thuần là nơi hỗ trợ tâm lý mà còn là một không gian an toàn, nơi mọi người có thể chia sẻ trải nghiệm và tìm kiếm sự hiểu biết. Với sự giúp đỡ từ các chuyên gia, nạn nhân bị QRTD được hỗ trợ trong việc phục hồi sức khỏe tinh thần và xây dựng lại niềm tin vào bản thân. Có thể nghiên cứu và tham khảo kinh nghiệm của Hàn Quốc, người lao động được bảo đảm quyền tiếp cận các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ như tư vấn, hướng dẫn và kiểm tra y tế tâm lý sau khi trải qua tình huống QRTD. Với việc bảo vệ quyền lợi và sự tôn trọng cá nhân được đặt lên hàng đầu, Đạo luật Công bằng tình dục và quyền lợi điều tra ở nơi làm việc tại Hàn Quốc cung cấp một khung pháp lý mạnh mẽ để bảo đảm môi trường làm việc an toàn và công bằng cho tất cả các nhân viên./.

ThS. Hồ Thị Thanh Trúc & nhóm sinh viên[1]

Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Tài chính - Marketing

[1]. Nhóm sinh viên thực hiện: Nguyễn Hoài Bảo Trâm, Phan Thị Phương Anh, Nguyễn Ngọc Linh, Ngô Thị Hồng Ngọc, Lê Ngọc Phương Thanh.

[2]. Civil Right Department (2020), Quấy rối tình dục (https://calcivilrights.ca.gov/wp-content/uploads/sites/32/2020/04/SexualHarassmentFactSheet_VT.pdf).

[3]. Minh Hiếu (2022), Quấy rối tình dục nơi công sở: Chuyện dễ đùa, khó xử lý (https://vovgiaothong.vn/quay-roi-tinh-duc-noi-cong-so-chuyen-de-dua-kho-xu-ly-d27035.html).

[4]. Vnexpress (2020), Quấy rối tình dục nơi công sở - dừng đổ lỗi cho nạn nhân (https://vnexpress.net/quay-roi-tinh-duc-noi-cong-so-dung-do-loi-cho-nan-nhan-4062891.html).

[5]. Tùng Anh (2023), Pháp lý về quấy rối tình dục tại nơi làm việc chưa đủ sát thực tế, https://theleader.vn/phap-ly-ve-quay-roi-tinh-duc-tai-noi-lam-viec-chua-du-sat-thuc-te-1680082775114.htm.

[6]. Internal Complaints Committee(ICC) - Women, https://dst.gov.in/internal-complaints-committee-icc-women, truy cập ngày 13/02/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 2 (Số 401), tháng 3/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.
Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Khả năng thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài - Kinh nghiệm quốc tế và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Tóm tắt: Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đề cao quyền tự quyết của các bên, vì thủ tục này chỉ được tiến hành khi các bên có thỏa thuận trọng tài. Cơ chế tự do thỏa thuận đặt ra vấn đề, liệu các bên có được thỏa thuận về thời hiệu khởi kiện để đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài hay không? Bài viết phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về khả năng thỏa thuận thời hiệu khởi kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, so sánh với pháp luật của một số quốc gia về vấn đề này; từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

Theo dõi chúng tôi trên: