Chủ nhật 14/12/2025 04:42
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Phòng ngừa tra tấn đối với hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can và một số kiến nghị

Với mong muốn cuộc đấu tranh chống tra tấn và đối xử hay trừng trị tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm được hiệu quả hơn, ngày 07/11/2013, Việt Nam đã ký Công ước Liên Hợp Quốc về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục nhân phẩm và ngày 28/11/2014, Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 8 đã phê chuẩn Công ước này. Trong nội dung bài viết, tác giả đã đánh giá những thành công của Việt Nam khi thực hiện Công ước, đồng thời, cũng nêu một số hạn chế và đề xuất định hướng hoàn thiện để phòng ngừa tra tấn trong tố tụng hình sự.


Sự kiện Việt Nam phê chuẩn Công ước chống tra tấn thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bảo vệ nhân quyền, thực hiện nhất quán chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam góp phần triển khai, thi hành có hiệu quả Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân và là bước đi cụ thể trong quá trình chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam, khẳng định Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Tra tấn thường được nói đến với các hình thức ngược đãi, được sử dụng như một sự trừng phạt, đe dọa nhằm kiểm soát người khác để có thể có được thông tin hay chỉ để thỏa mãn các xung đột tàn bạo[1] có những hành vi nhất định được hiển nhiên xác định là tra tấn thể chất như: Sốc điện vào bộ phận sinh dục hoặc kéo móng tay ra khỏi ngón tay; dùng các hung khí hoặc tay không tác động vào cơ thể của nạn nhân[2]; nhấn nước hoặc gây nghẹt thở; treo người trong một thời gian dài[3]... Tuy nhiên, tra tấn không chỉ bằng các hình thức gây tổn thương về thể chất, mà có thể được thực hiện bằng hình thức tra tấn tinh thần. Công ước chống tra tấn không quy định cụ thể, nhưng có thể kể đến một số hình thức như: Biệt giam nạn nhân trong phòng kín, không có ánh sáng; không tiếp xúc trong một thời gian dài; cho nạn nhân chứng kiến cảnh người thân bị hành hạ; cho nạn nhân chịu đựng những âm thanh khó chịu khiến nạn nhân bị ám ảnh hay ức chế[4]... Các hành vi gây ra trạng thái quá mức chịu đựng của một con người, uy hiếp tinh thần dẫn đến nạn nhân sợ hãi, đau khổ, tuyệt vọng thông qua các mối đe dọa đối với gia đình hoặc những người thân yêu[5].

Khi tham gia Công ước chống tra tấn đã đặt ra một yêu cầu đối với các nước thành viên là “phải thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm phòng ngừa mọi hành vi tra tấn”[6], đồng thời, phải ghi nhận nội dung Điều 1 Công ước về khái niệm tra tấn vào hệ thống pháp luật quốc gia. Với vai trò là thành viên Hội đồng nhân quyền và là quốc gia đã phê chuẩn Công ước, cũng như gia nhập nhiều Điều ước quốc tế về quyền con người[7], ngày 17/3/2015, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 364/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, trong đó nêu rõ: “Nghiên cứu hoàn thiện các quy định có liên quan trong Bộ luật Tố tụng hình sự để bảo đảm tốt hơn quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam”[8]. Căn cứ vào kế hoạch này các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các cấp đã nghiêm túc triển khai thực hiện: Tổ chức tập huấn nội dung Công ước cho cán bộ, công chức; tuyên truyền Công ước chống tra tấn rộng rãi cho quần chúng nhân dân, có các kế hoạch nghiên cứu lĩnh vực pháp lý để phòng ngừa tra tấn trong nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự.

Thực tế, Bộ luật Tố tụng hình sự qua các thời kỳ, mà cụ thể là Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được các nhà lập pháp nghiên cứu nội luật hóa những quan điểm tiến bộ nhằm bảo đảm quyền con người trong các văn kiện quốc tế cũng như của Công ước chống tra tấn để phòng ngừa tra tấn như: Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể; nguyên tắc bảo hộ, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cá nhân, pháp nhân[9]; quy định “ghi âm, ghi hình có âm thanh”; những việc cần phải làm ngay sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị bắt; thông báo về việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp; các quyền của người bị buộc tội và một số chế định khác nhằm hỗ trợ cho người bị buộc tội có khả năng phòng ngừa hành vi dùng nhục hình từ những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng... Do đó, khi chính thức phê chuẩn Công ước chống tra tấn, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những quy định thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của quốc gia thành viên.

Thời gian qua, mặc dù tình hình tội phạm vẫn còn diễn biến phức tạp và đang có chiều hướng gia tăng số vụ, số người phạm tội[10]. Nhưng cơ quan điều tra trong lực lượng Công an nhân dân đã nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, từng bước chấn chỉnh, khắc phục tồn tại, thiếu sót vi phạm các quyền con người, đồng thời, đã triển khai áp dụng nhiều biện pháp tích cực để quán triệt và thực hiện nhiệm vụ Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước để phòng ngừa tra tấn trong tố tụng hình sự nhất là đối với “lấy lời khai, hỏi cung bị can”. Bởi vì, đây là hoạt động có khả năng xảy ra tra tấn (dùng nhục hình cao nhất). Theo Báo cáo Quốc gia của Việt Nam về thực thi Công ước chống tra tấn, từ năm 2010 đến năm 2015, Tòa án nhân dân chưa thụ lý vụ án nào về tội bức cung và tội mua chuộc hoặc cưỡng ép người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; đã thụ lý và xét xử 10 vụ án với tổng số 26 lượt bị cáo về tội dùng nhục hình theo Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, theo Báo cáo của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, từ năm 2016 đến năm 2020, Tòa án nhân dân đã thụ lý, xét xử 10 vụ/25 bị cáo[11]. Có thể thấy rằng, với số lượng vụ án hình sự mỗi năm xảy ra là rất lớn, thì vẫn còn tồn tại những vụ án dùng nhục hình nhưng chiếm tỉ lệ rất thấp[12]. Theo điều tra xã hội học của tác giả tại một số trại giam của Bộ Công an cho thấy, hiện nay, lực lượng điều tra viên nói chung đã tuân thủ các quy định tố tụng hình sự để bảo đảm quyền con người, phòng ngừa tra tấn trong quá trình lấy lời khai, hỏi cung bị can như: Các bị can được phổ biến về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, được hỏi thăm tình trạng sức khỏe khi tiến hành làm việc; lấy lời khai, hỏi cung bị can thường được tiến hành vào các khung giờ 7 - 11 giờ; 13 - 17 giờ; thời gian trung bình từ 2 - 3 giờ/1 lần; có sự hiện diện của người bào chữa khi các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tổ chức hỏi cung bị can và được đặt câu hỏi khi điều tra viên đồng ý (khi người bị buộc tội có nhờ người bào chữa); cho phép người bị buộc tội được thực hiện quyền im lặng; có sự tham gia của Viện kiểm sát khi tiến hành hỏi cung bị can… Có thể đánh giá rằng, cơ bản Việt Nam đã thực hiện nghĩa vụ này và đạt được những kết quả nhất định về phòng ngừa các hành vi tra tấn khi cơ quan điều tra các cấp tiến hành lấy lời khai, hỏi cung bị can. Vấn đề này đã giúp cho Việt Nam hòa nhập với cộng đồng quốc tế phòng ngừa các hành vi tra tấn trong tố tụng hình sự và góp phần khám phá nhanh các vụ án và giảm tỉ lệ án vụ án oan sai có thể xảy ra.

Tuy nhiên, thực tế hành vi tra tấn vẫn diễn ra, mặt khác, tra tấn là một loại tội phạm có mức độ ẩn khá cao, chỉ khi nào nạn nhân bị dùng nhục hình đến mức phải nhập viện, thậm chí, dẫn đến tử vong thì hành vi mới được phát hiện. Trong khi đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuy đã thể hiện nội dung phòng ngừa tra tấn, nhưng vẫn còn một số bất cập như sau:

Một là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có quy định về trình tự, thủ tục tiến hành hỏi cung bị can, nhưng không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến hành lấy lời khai đối với người bị tạm giữ, người bị bắt trong các trường hợp, dẫn đến mỗi địa phương áp dụng mỗi kiểu. Có nơi phổ biến quyền và nghĩa vụ khi lấy lời khai, nhưng cũng có nơi không hoặc không xác định trạng thái tinh thần của người được lấy lời khai. Đồng thời, hoạt động lấy lời khai cũng không bắt buộc phải ghi âm, ghi hình có âm thanh. Trong khi đó, thực tiễn khảo sát các vụ án dùng nhục hình cho thấy, tỉ lệ dùng nhục hình trong quá trình lấy lời khai chiếm đa số so với hỏi cung bị can. Bởi vì, khi bị can đã bị khởi tố thì đã có một số cơ chế giám sát.

Hai là, tra tấn có thể được thực hiện bằng hình thức thể chất hoặc tinh thần. Do đó, việc kéo dài thời gian lấy lời khai, hỏi cung bị can liên tục trong nhiều giờ hoặc tiến hành xuyên đêm chính là một trong những biểu hiện hành vi tra tấn về tinh thần để có được lời nhận tội. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tuy có quy định không tiến hành hỏi cung bị can vào bên đêm[13], song lại có quy định mở là trừ những trường hợp không thể trì hoãn được, tuy nhiên, không nêu rõ như thế nào là trường hợp không thể trì hoãn được. Thực tiễn cho thấy, tiến hành lấy lời khai, hỏi cung bị can vào ban đêm rất dễ dẫn đến dùng nhục hình, bởi vì, cả điều tra viên và đối tượng đều trong trạng thái mệt mỏi về tinh thần. Điều tra viên mong muốn có được lời nhận tội, đối tượng quanh co không nhận tội, thì tra tấn là cách làm nhanh nhất để có được lời khai. Điển hình như vụ 07 thanh niên bị dùng nhục hình xảy ra tại tỉnh Sóc Trăng, vụ án Lê Thanh Kiều ở Phú Yên…

Ba là, theo quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thời điểm người bào chữa tham gia là từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra; được tham gia khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, hỏi cung bị can[14]. Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận đơn yêu cầu người bào chữa, thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm chuyển đơn cho người bào chữa hoặc người thân thích của họ; trong thời hạn 24 giờ kể từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận đủ các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và không thuộc trong các trường hợp tại khoản 5 của Điều này thì mới giải quyết cho phép bào chữa hay không. Trong khi đó, quy định tại Điều 114 của Bộ luật này về những việc cần làm ngay sau khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người hoặc nhận người bị giữ bị bắt, thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành lấy lời khai ngay. Với những quy định này, thì thực tế, người bào chữa không thể tham gia lấy lời khai từ khi người bị bắt, tạm giữ khi họ có mặt tại trụ sở cơ quan điều tra. Vấn đề này đã được tác giả khảo sát ý kiến của luật sư là: 68/82 (82,9%) cho rằng, họ chỉ được tham gia khi đã khởi tố bị can, chỉ có 7/82 trả lời là có tham gia bào chữa trước giai đoạn khởi tố bị can. Với kết quả thực tế này cho thấy, quy định của pháp luật cũng đang gây khó khăn cho sự tiếp cận sớm của người bào chữa nhằm phòng ngừa tra tấn đối với người bị buộc tội.

Bốn là, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ghi nhận những người bị buộc tội có quyền không tự đưa ra lời khai chống lại mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Đây là nội dung được thể chế hóa từ quyền im lặng đang được áp dụng rất phổ biến trong tố tụng hình sự trên thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, nếu quá trình ghi nhận lời khai mà im lặng, không khai báo gì thì rất có thể người bị buộc tội còn bị ghép vào tình tiết tăng nặng được quy định trong Bộ luật Hình sự. Như vậy, về bản chất, quyền này chưa được thực hiện hữu hiệu trong thực tiễn và còn mang nặng tính hình thức.

Báo cáo Quốc gia của Việt Nam đã được Ủy ban Chống tra tấn đánh giá cao tính lập pháp của Việt Nam để phòng ngừa các hành vi tra tấn từ phía cơ quan công quyền. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Ủy ban Chống tra tấn cũng đã quan ngại một số vấn đề như: Bộ luật Hình sự Việt Nam vẫn chưa ghi nhận hành vi tra tấn như đã nêu tại Điều 1 của Công ước chống tra tấn; Việt Nam bị các tổ chức khác cáo buộc về việc lan rộng sử dụng tra tấn và ngược đãi, đặc biệt là trong các trụ sở cảnh sát, cũng như các địa điểm khác, nơi mà có người bị tước tự do, số vụ về tra tấn (dùng nhục hình trong thời gian qua phát hiện là còn quá ít… Do đó, để phòng ngừa tra tấn, đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, chúng ta cần minh bạch, rõ ràng, đồng thời, cần sửa đổi một số quy định hiện hành để phòng ngừa tra tấn trong tố tụng hình sự, cụ thể:

- Cần nghiên cứu để xây dựng quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền, thời gian tiến hành lấy lời khai và quy định rõ không được tiến hành lấy lời khai vào ban đêm, trừ trường hợp vụ việc xảy ra vào ban đêm cần phải truy bắt ngay đồng phạm, kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc các hành vi chuẩn bị phạm tội; thời gian lấy lời khai không quá 08 giờ/ngày. Cách 02 tiếng lấy lời khai sẽ được nghỉ ngơi; không tiến hành lấy lời khai vào các khung giờ nghỉ trưa hoặc tiến hành liên tục 08 giờ/1 lần; được ghi âm, ghi hình có âm thanh; người bị bắt, bị tạm giữ được quyền từ chối trả lời các câu hỏi nếu câu hỏi đó không liên quan đến nội dung vụ án; có sự tham gia của người bào chữa, kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai, lời khai có được do hành vi tra tấn sẽ không có giá trị làm chứng cứ chứng minh.

- Đối với hỏi cung bị can, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần bổ sung những trường hợp đặc biệt được tiến hành hỏi cung bị can vào ban đêm hoặc có văn bản hướng dẫn cụ thể nội dung này. Đồng thời, tương tự như lấy lời khai, cần ghi nhận rõ về thời gian, tần xuất được tiến hành hỏi cung bị can, ghi nhận quyền từ chối khai nhận nếu câu hỏi không liên quan nội dung vụ án, thời gian nghỉ ngơi giữa các buổi hỏi cung bị can nếu kéo dài. Đồng thời, vấn đề quan trọng là kiểm sát viên trong mỗi vụ án phải có một bản phúc cung cuối cùng để ghi nhận lại nội dung vụ việc, qua đó, xem xét bị can có bị tra tấn dẫn đến khai sai sự thật hay không.

- Sửa đổi quy định về trình tự thủ tục khi tham gia bào chữa của người bào chữa theo hướng giảm các thủ tục, giải quyết hồ sơ nhanh nhất khi có yêu cầu bào chữa để bảo đảm quyền tiếp cận đối với người bào chữa của người bị buộc tội theo hướng, chỉ cần người bào chữa xuất trình được các giấy tờ có liên quan đến việc bào chữa, thì cơ quan tiến hành tố tụng phải cho họ tham gia ngay.

- Hiện nay, các cơ quan tiến hành tố tụng đều có hệ thống các trường chuyên ngành. Lực lượng điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đều được đào tạo chính quy tại đây. Do đó, trong các chương trình học cần có các môn về nhân quyền, luật quốc tế, công pháp quốc tế để họ có thể nắm rõ về tầm quan trọng của quyền con người trong tư pháp hình sự. Từ đó, giáo dục và hình thành ý thức tôn trọng các quyền con người, quyền tự do dân chủ của nhân dân trong thực tiễn công tác sau này.

TS. Trịnh Duy Thuyên
Đại học Cảnh sát nhân dân



[1]. Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.

[2]. Tlđd số 4, p. 15.

[3]. Giải thích của Uỷ ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.

[4]. Giải thích của Ủy ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 79.

[5]. Giải thích của Uỷ ban chống tra tấn, Bình luận chung số 20, đoạn 6. Xem: Manfred Nowak, Elizabeth McArthur (2008), The United Nation Convention Against Torture - A Commentary, Oxford University Press, p. 29 - 49.

[6]. Khoản 1 Điều 2 Công ước Chống tra tấn.

[7]. Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 17/3/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, tr. 3.

[8]. Quyết định số 364/QĐ-TTg ngày 17/3/2015 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.

[9]. Xem Điều 10, Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[10]. Bộ Công an, Báo cáo tổng kết năm từ 2012 đến năm 2019.

[11]. Cục Thống kê, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

[12]. Ban nghiên cứu gia nhập Công ước chống tra tấn, Báo cáo tổng kết thực tiễn thi hành pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền con người giai đoạn (2000 - 2012), Hà Nội.

[13]. Xem Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[14]. Xem Điều 73, Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: