Thứ tư 18/06/2025 11:34
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quản lý chất thải rắn sinh hoạt từ thực tiễn tại Thành phố Hà Nội và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật

Trong bài viết này, nhóm tác giả đánh giá thực trạng về quản lý chất thải rắn sinh hoạt từ thực tiễn tại Thành phố Hà Nội, từ đó, đề ra các yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam.

In this article, the authors assess the current situation of daily-life solid waste management from practice in Hanoi City, thereby proposing requirements to improve the legislation on daily-life solid waste management in Vietnam.

1. Sự tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đến việc thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Thành phố Hà Nội

1.1. Tác động tích cực

Thứ nhất, Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm đầu não về chính trị, văn hóa và là nơi giao dịch kinh tế lớn của cả nước. Hiện nay, Hà Nội gồm 30 đơn vị hành chính cấp huyện trong đó có 12 quận, 17 huyện và 01 thị xã, phía Bắc giáp tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc; phía Nam giáp tỉnh Hà Nam, Hòa Bình; phía Đông giáp Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên; phía Tây giáp tỉnh Hòa Bình và Phú Thọ. Đây là lợi thế để người dân giao lưu, trao đổi các thông tin trong mọi lĩnh vực như kinh doanh buôn bán, văn hóa - xã hội, giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ... Vì vậy, người dân thủ đô Hà Nội có nhiều điều kiện tiếp cận các loại thông tin đa chiều. Hà Nội có dân trí cao và thường xuyên được nâng cao nhận thức pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt nói riêng. Điều này góp phần vào việc thực hiện hiệu quả pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại thủ đô.

Thứ hai, kinh tế Thủ đô Hà Nội liên tục tăng trưởng và đạt mức khá trong giai đoạn vừa qua. Tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2020 ước đạt 3,94%, tuy không đạt kế hoạch (7,5%) nhưng là mức cao so với các tỉnh, thành phố và mức chung của cả nước. Bình quân giai đoạn 2016 - 2019, GRDP tăng 7,36%; năm 2020, do ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, hầu hết các chỉ tiêu tăng trưởng ước đạt được thấp hơn trung bình giai đoạn 2016 - 2019, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 GRDP tăng 6,67% (cả nước ước 5,9%). Quy mô GRDP năm 2020 ước đạt 1,024 triệu tỷ đồng, khoảng 43,5 tỷ USD; GRDP bình quân đầu người ước đạt 5.250 USD, tăng 1,43 lần so với năm 2015, gấp 1,9 lần bình quân cả nước[1]. Do mức sống và trình độ dân trí tại Thành phố Hà Nội ngày càng cao nên người dân thủ đô luôn có thái độ ứng xử văn minh trong sinh hoạt thường nhật, có ý thức bảo vệ môi trường giữ gìn thủ đô sạch đẹp. Điều này đã tác động tích cực đến việc thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Thành phố Hà Nội.

1.2. Tác động tiêu cực

Thứ nhất, Hà Nội lại là một trong những thành phố “đắt đỏ” nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có[2]. Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Trong các quận trung tâm thành phố, các đường phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, số lượng ô tô, xe máy, xe đạp “khổng lồ” cùng tham gia giao thông dẫn đến quá tải. Bên cạnh đó, ý thức chưa tốt của một bộ phận các cư dân thành phố cũng là những hạn chế không nhỏ ảnh hưởng đến việc tuân thủ pháp luật và thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt.

Thứ hai, sau lần mở rộng địa giới hành chính năm 2008, điều kiện chăm sóc y tế giữa nội đô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng[3]. Những vấn đề này cũng là những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Thành phố Hà Nội.

2. Thực trạng quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Thành phố Hà Nội

Thứ nhất, chất thải rắn sinh hoạt hầu hết chưa được phân loại tại nguồn, các chương trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại Thành phố Hà Nội còn mang tính thử nghiệm, chưa đồng bộ; cơ sở hạ tầng, thiết bị, phương tiện thiết yếu phục vụ hoạt động lưu giữ, chuyển giao cũng như thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa được chú trọng; hoạt động tái chế chất thải rắn sinh hoạt còn mang tính nhỏ lẻ, tự phát, chủ yếu vẫn được thực hiện bởi khu vực phi chính thức ở các làng nghề, dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường. Phần lớn các cơ sở tái chế chất thải rắn sinh hoạt có quy mô nhỏ, mức độ đầu tư công nghệ không cao, đa số công nghệ đều lạc hậu, máy móc thiết bị cũ, gây ô nhiễm môi trường thứ cấp; phương thức xử lý chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu vẫn là chôn lấp, hầu hết các bãi chôn lấp đã tồn tại từ lâu, tốn nhiều quỹ đất mà không hiệu quả; tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được xử lý kết hợp thu hồi năng lượng còn thấp. Nhiều cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt đã được xây dựng và vận hành nhưng chưa đạt yêu cầu về bảo vệ môi trường và rất chậm so với tiến độ đặt ra. Hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt còn mang tính chất tự phát nên chưa thúc đẩy được tính chuyên nghiệp của các tổ dịch vụ, hợp tác xã, chưa phù hợp với thực tế xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam do chất thải rắn sinh hoạt ở nước ta chưa được phân loại tại nguồn, nhiệt trị của chất thải rắn sinh hoạt thấp, độ ẩm không khí cao, thiết bị xử lý bụi, khí thải đi kèm không bảo đảm.

Thứ hai, trách nhiệm về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của một số chủ thể có liên quan như cơ quan quản lý nhà nước, người dân thủ đô, các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, các khu chung cư, văn phòng có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt và các chủ nguồn thải chất thải rắn sinh hoạt khác chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu theo quy định của pháp luật. Nhận thức của một bộ phận người dân thủ đô trong các khâu phân loại, lưu giữ và chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt còn nhiều hạn chế. Chất thải rắn sinh hoạt chưa được tận dụng tối đa phần có ích để tái chế, tái sử dụng. Tại nhiều quận, huyện, xã, phường của Thủ đô Hà Nội, một bộ phận người dân chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng phí vệ sinh môi trường theo quy định. Một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ… có phát sinh chất thải rắn sinh hoạt còn vì lợi ích kinh tế mà “quên” đi hoặc chưa có ý thức quản lý chất thải rắn sinh hoạt, gây ô nhiễm môi trường. Việc phân công chức năng nhiệm vụ về quản lý chất thải rắn sinh hoạt giữa các cơ quan có liên quan đôi lúc chưa chặt chẽ, chưa kịp thời, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Việc lập và thực hiện quy hoạch về quản lý, xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa hợp lý, chưa phù hợp với điều kiện tự nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hà Nội, một số quy hoạch đã lập từ lâu nên bị lạc hậu so với tình hình thực tế nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời. Quy định về phí xử lý chất thải rắn sinh hoạt còn thấp, không đủ chi phí cho công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt, chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Sự vào cuộc của chính quyền chưa thực sự quyết liệt, hiệu quả trong việc thực hiện các quy định về quản lý chất thải rắn sinh hoạt chưa cao, nên các quận, huyện của Thành phố Hà Nội vẫn đang thụ động trong việc quản lý và xử lý chất thải rắn sinh hoạt.

Thứ ba, việc huy động các nguồn lực cho quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn hạn chế. Nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu từ ngân sách nhà nước, tuy nhiên, chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra. Cơ sở hạ tầng, nguồn kinh phí và nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong công tác quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Việc ban hành giá, phí vệ sinh chưa theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”, mức phí thu gom chất thải rắn sinh hoạt từ các hộ gia đình còn quá thấp so với chi phí quản lý chất thải rắn sinh hoạt. Việc huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp ngoài Nhà nước để đầu tư xây dựng khu xử lý, nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Tình trạng ứ đọng chất thải rắn sinh hoạt tại nhiều quận, huyện của Hà Nội, nhất là các khu vực ngoại thành, với tỷ lệ thu gom chỉ đạt gần 70% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh (ước khoảng 2.500 tấn/ngày). Nhiều huyện xa trung tâm Thành phố Hà Nội chưa có khu xử lý chất thải rắn sinh hoạt tập trung, nên còn có hiện tượng tận dụng các ao, hồ, các vùng trũng để đổ rác, hình thành hố chôn lấp rác tự phát, không đảm bảo quy trình kỹ thuật và tạo nguy cơ ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm của khu vực...

Thứ tư, các văn bản quy định việc thực hiện các khâu trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn chưa hoàn thiện; thiếu các hướng dẫn cụ thể chi tiết cho lộ trình phân loại chất thải rắn sinh hoạt tại nguồn với mục tiêu thực hiện hiệu quả hoạt động phân loại chất thải rắn sinh hoạt trên địa bàn thành phố; còn thiếu các hướng dẫn lựa chọn công nghệ, kỹ thuật phù hợp về thu gom, lưu giữ, chuyển giao và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; thiếu chế tài xử phạt các hành vi vi phạm trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt; còn nhiều hạn chế, khó khăn trong việc ban hành các văn bản pháp quy hướng dẫn lựa chọn mô hình công nghệ xử lý phù hợp đạt tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường, dẫn đến việc “lúng túng” trong lựa chọn chủ đầu tư. Quy định về khoảng cách an toàn môi trường của cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt chưa phù hợp với thực tế, dẫn đến những hạn chế, vướng mắc do chưa nhận được sự đồng thuận của người dân trong lựa chọn vị trí xây dựng cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt (bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt). Việc bổ sung các nhà máy đốt rác phát điện vào quy hoạch phát triển điện lực quốc gia gặp khó khăn; chưa có văn bản hướng dẫn về các công trình cần điều chỉnh vào quy hoạch điện lực theo quy định của Luật Quy hoạch, nên tiến độ triển khai các dự án điện rác chậm so với kế hoạch và yêu cầu thực tiễn.

Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện vi phạm và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt còn nhiều hạn chế. Trong những tháng cuối năm 2021, Thủ đô Hà Nội đã tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý chất thải rắn sinh hoạt, chủ yếu tập trung vào nhóm các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình xây dựng phát sinh lượng chất thải sinh hoạt lớn trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Ủy ban nhân dân các quận, huyện đã phối hợp kịp thời với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành thanh tra, kiểm tra và xử lý các vi phạm về bảo vệ môi trường tại nhiều công trình xây dựng trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Trong số 11.071 công trình được kiểm tra, có 240 công trình vi phạm, trong đó có nhiều công trình gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới các công trình lân cận[4]… Các khu vực ô nhiễm như mương Thụy Khuê, quận Tây Hồ, nhiều năm liền ô nhiễm nghiêm trọng, đến nay, đã được đầu tư bê tông cống hóa kiên cố. Tại quận Đống Đa, Ủy ban nhân dân quận đã xây dựng kế hoạch và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án xử lý ô nhiễm tại 03 hồ lớn là hồ Vuông, hồ Bán Nguyệt, hồ Khương Thượng. Tại huyện Phú Xuyên, Ủy ban nhân dân huyện đang tập trung chỉ đạo các đơn vị chức năng xử lý dứt điểm các điểm tập kết rác thải không đúng nơi quy định, các điểm tập kết rác lộ thiên trên địa bàn, cải tạo thành các đoạn đường, điểm trồng cây, trồng hoa, tạo cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp... Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều các trường hợp gây ô nhiễm môi trường nghiêm trong trên địa bàn Thành phố Hà Nội chưa được các cơ quan chức năng phát hiện, xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật, có thể kể tới việc tồn tại rất nhiều các bãi rác tự phát mà một số người dân thiếu ý thức thường “lén lút” mang tới đổ trộm gây ô nhiễm ở khu vực này vẫn xuất hiện thường xuyên. Việc để cho nhiều bãi rác thải tự phát tồn tại xung quanh khu vực công viên như vậy không chỉ tạo nên hình ảnh “nhếch nhác”, mất mỹ quan đô thị, mà còn gây ô nhiễm môi trường.

3. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam

So với những quy định pháp luật ở những quốc gia có trình độ quản lý chất thải rắn sinh hoạt, bảo vệ môi trường tốt thì những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn hạn chế. Sự hạn chế này ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước ta, cũng như nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, theo tác giả, việc hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải tiến hành theo các định hướng sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải trên cơ sở quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và chiến lược xây dựng pháp luật của Nhà nước về bảo vệ môi trường.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải trên cơ sở vận dụng linh hoạt các lý thuyết hiện đại về phát triển bền vững; về phòng ngừa ô nhiễm môi trường; những quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước về ý nghĩa của hoạt động quản lý chất thải rắn sinh hoạt đối với việc phát triển kinh tế bền vững tại các đô thị lớn ở Việt Nam; nâng cao nhận thức về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của người dân thủ đô.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải bảo đảm tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật bảo vệ môi trường. Những nguyên tắc đó là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật bảo vệ môi trường nói chung. Nó có thể được coi như cơ sở, nền tảng cho những quy định cụ thể của pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng cho tất cả các tỉnh thành, địa phương và nhất là đối với các đô thị lớn ở Việt Nam.

Thứ tư, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải phù hợp với thực trạng quản lý chất thải rắn sinh hoạt trong tất cả các công đoạn và phải trên cơ sở sửa đổi, bổ sung, phát triển những quy định hiện hành.

Thứ năm, hoàn thiện pháp luật về quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải xác định đầy đủ và chính xác các yêu cầu của nó. Có thể khái quát lại những yêu cầu đó là: Khi xây dựng các nội dung trong pháp luật quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam cần quan tâm bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành; được xây dựng trên cơ sở tôn trọng các yêu cầu về phát triển bền vững; chú ý đến yếu tố phòng ngừa; thực hiện nguyên tắc ai gây ô nhiễm, người đó phải trả tiền; pháp luật quản lý chất thải rắn sinh hoạt ở Việt Nam phải rõ ràng, minh bạch, dễ hiểu, mang tính ổn định và phù hợp với xu thế phát triển bền vững và tăng trưởng xanh.

TS. Lê Kim Nguyệt & Học viên cao học Chử Trọng Nghĩa

Trường Đại học Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội

[1]. https://kinhtedothi.vn/tang-truong-grdp-nam-2020-cua-ha-noi-dat-muc-cao-so-voi-muc-chung-cua-ca-nuoc.html, truy cập ngày 25/12/2021.

[2]. https://tuoitre.vn/ha-noi-va-tphcm-trong-nhom-50-thanh-pho-dat-do-nhat-the-gioi-146903.htm, truy cập ngày 01/10/2021.

[3]. https://kinhtedothi.vn/quy-hoach-thu-do-ha-noi-can-tich-hop-xu-ly-chat-thai-ran.html, truy cập ngày 20/10/2022.

[4]. https://dttg.baotainguyenmoitruong.vn/ha-noi-tang-cuong-thanh-kiem-tra-xu-ly-diem-den-o-nhiem-329660.html, truy cập ngày 12/12/2021.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm