Pháp luật Việt Nam quy định về trợ giúp pháp lý nói chung và quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nói riêng hiện tương đối đầy đủ, toàn diện. Trong đó, Hiến pháp có trị pháp lý cao nhất, bên cạnh đó có thể kể đến Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017[1], Luật Người khuyết tật năm 2010, Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý, Thông tư số 08/2017/TT-BTP ngày 15/11/2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý và hướng dẫn giấy tờ trong hoạt động trợ giúp pháp lý[2],... Mặc dù vậy, để phù hợp với giai đoạn mới, quy định pháp luật về trợ giúp pháp lý cũng cần có những điều chỉnh nhất định.
Theo pháp luật hiện hành, trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật[3]; người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn[4].
1. Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật có khó khăn về tài chính
Hiến pháp năm 2013 có những quy định quan trọng thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong trợ giúp người khuyết tật. Cụ thể, khoản 2 Điều 59, khoản 3 Điều 61 Hiến pháp năm 2013 quy định: "2. Nhà nước tạo bình đẳng về cơ hội để công dân thụ hưởng phúc lợi xã hội, phát triển hệ thống an sinh xã hội, có chính sách trợ giúp người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn khác"; "3. Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; ưu tiên sử dụng, phát triển nhân tài; tạo điều kiện để người khuyết tật và người nghèo được học văn hóa và học nghề". Mặc dù không quy định cụ thể về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nhưng trên cơ sở các quy định về chăm lo, quan tâm, hỗ trợ người khuyết tật được ghi nhận trong Hiến pháp, các văn bản pháp luật đã cụ thể hóa và ngày càng hoàn thiện quy định về quyền của người khuyết tật nói chung, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật nói riêng.
Theo điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền "được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật".
Ngày 05/8/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1190/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình trợ giúp người khuyết tật giai đoạn 2021 - 2030 với mục tiêu chung là thúc đẩy thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật và Luật Người khuyết tật nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người khuyết tật; tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia bình đẳng vào các hoạt động của xã hội; xây dựng môi trường không rào cản bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người khuyết tật và hỗ trợ người khuyết tật phát huy khả năng của mình. Theo đó, trong Quyết định đặt mục tiêu cụ thể giai đoạn 2021 - 2025, 80% người khuyết tật có khó khăn về tài chính được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu; giai đoạn 2025 - 2030, 100% người khuyết tật có khó khăn về tài chính được cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý khi có nhu cầu. Điều này cho thấy quyết tâm của Chính phủ trong trợ giúp người khuyết tật, trong đó có trợ giúp pháp lý.
Điểm d khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định rõ người khuyết tật có khó khăn về tài chính thuộc trường hợp được trợ giúp pháp lý. Điều kiện khó khăn về tài chính của người được trợ giúp pháp lý là người thuộc hộ cận nghèo hoặc là người đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật[5].
Theo Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, người khuyết tật thuộc diện được trợ giúp pháp lý có các quyền cụ thể như sau[6]: (i) Được trợ giúp pháp lý mà không phải trả tiền, lợi ích vật chất hoặc lợi ích khác; (ii) Tự mình hoặc thông qua người thân thích, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khác yêu cầu trợ giúp pháp lý. (iii) Được thông tin về quyền được trợ giúp pháp lý, trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý khi đến tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và các cơ quan nhà nước có liên quan; (iv) Yêu cầu giữ bí mật về nội dung vụ việc trợ giúp pháp lý; (v) Lựa chọn một tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý và người thực hiện trợ giúp pháp lý tại địa phương trong danh sách được công bố; yêu cầu thay đổi người thực hiện trợ giúp pháp lý khi người đó thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 25 của Luật này; (vi) Thay đổi, rút yêu cầu trợ giúp pháp lý; (vii) Được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật; (viii) Khiếu nại, tố cáo về trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Bên cạnh đó, theo Điều 27 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trợ giúp pháp lý được thực hiện trong các lĩnh vực pháp luật, trừ lĩnh vực kinh doanh, thương mại, bằng các hình thức gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng. Theo đó, tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật; đại diện ngoài tố tụng được quy định như sau[7]: (i) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này và pháp luật về tố tụng; (ii) Người thực hiện trợ giúp pháp lý tư vấn pháp luật cho người được trợ giúp pháp lý bằng việc hướng dẫn, đưa ra ý kiến, giúp soạn thảo văn bản liên quan đến tranh chấp, khiếu nại, vướng mắc pháp luật; hướng dẫn giúp các bên hòa giải, thương lượng, thống nhất hướng giải quyết vụ việc; (iii) Trợ giúp viên pháp lý, luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý đại diện ngoài tố tụng cho người được trợ giúp pháp lý trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2. Thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý
Ngày 30/6/2025, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Quyết định số 2006/QĐ-BTP về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, theo đó, Quyết định công bố các thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp đã được công bố tại Quyết định số 172/QĐ-BTP ngày 16/02/2024.
Quyết định số 2006/QĐ-BTP nêu rõ căn cứ pháp lý của thủ tục yêu cầu trợ giúp pháp lý gồm: Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017; Thông tư số 08/2017/TT-BTP; Thông tư số 12/2018/TT-BTP ngày 28/8/2018 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn một số hoạt động nghiệp vụ trợ giúp pháp lý và quản lý chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý; Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP và Thông tư số 12/2018/TT-BTP; Thông tư số 09/2022/TT-BTP ngày 30/12/2022 bãi bỏ một số nội dung tại các Thông tư trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý, hộ tịch do Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành; Thông tư số 10/2023/TT-BTP ngày 29/12/2023 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 08/2017/TT-BTP và Thông tư số 12/2018/TT-BTP; Thông tư số 08/2025/TT-BTP ngày 12/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp và phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp; Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 25/6/2025 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các Thông tư thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Khi yêu cầu trợ giúp pháp lý, người yêu cầu phải nộp hồ sơ yêu cầu trợ giúp pháp lý cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh/thành phố, Chi nhánh của Trung tâm hoặc tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý (tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật ký hợp đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Sở Tư pháp; tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý). Việc nộp hồ sơ có thể được thực hiện bằng một trong những cách thức sau: (i) Nộp hồ sơ trực tiếp tại trụ sở của tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý: Người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc và xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý. Trong trường hợp người yêu cầu trợ giúp pháp lý không thể tự mình viết đơn thì người tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm ghi các nội dung vào mẫu đơn để họ tự đọc hoặc đọc lại cho họ nghe và yêu cầu họ ký tên hoặc điểm chỉ vào đơn; (ii) Gửi hồ sơ qua dịch vụ bưu chính: Người yêu cầu trợ giúp pháp lý nộp đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc và bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý; (iii) Gửi hồ sơ qua fax, hình thức điện tử: Trường hợp này cần lưu ý khi gặp người thực hiện trợ giúp pháp lý, người yêu cầu trợ giúp pháp lý phải xuất trình bản chính hoặc nộp bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh là người được trợ giúp pháp lý.
Thành phần hồ sơ gồm: (i) Đơn yêu cầu trợ giúp pháp lý (theo mẫu); (ii) Giấy tờ chứng minh người thuộc diện trợ giúp pháp lý - người khuyết tật có khó khăn về tài chính (giấy tờ chứng minh là người khuyết tật có khó khăn về tài chính gồm một trong các loại giấy tờ sau: Giấy chứng nhận hộ cận nghèo kèm theo Giấy chứng nhận khuyết tật do cơ quan có thẩm quyền cấp; Quyết định hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng; Quyết định tiếp nhận đối tượng vào chăm sóc, nuôi dưỡng tại nhà xã hội, cơ sở bảo trợ xã hội); (iii) Các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc trợ giúp pháp lý.
3. Tiếp tục hoàn thiện quy định về quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động trợ giúp pháp lý nói chung và trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật nói riêng cũng tồn tại những khó khăn, bất cập nhất định, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ quy định pháp luật cần được hoàn thiện để bảo đảm hơn quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật. Cụ thể:
Một là, quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật được quy định trong hai văn bản luật là Luật Người khuyết tật năm 2010 và Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 nhưng hai văn bản này chưa thống nhất. Cụ thể: (i) Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền trợ giúp pháp lý, trong khi đó, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 quy định người khuyết tật có khó khăn về tài chính là một trong những đối tượng được trợ giúp pháp lý,tức người khuyết tật phải có thêm điều kiện là có khó khăn về tài chính mới thuộc diện được trợ giúp pháp lý; (ii) Điểm d khoản 1 Điều 4 Luật Người khuyết tật năm 2010 quy định người khuyết tật được bảo đảm thực hiện quyền trợ giúp pháp lý phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật, trong khi đó, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 chưa đề cập và phân biệt cơ chế trợ giúp pháp lý cho từng dạng tật và mức độ khuyết tật theo quy định của Luật Người khuyết tật năm 2010[8]. Chính vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung quy định của hai luật này nhằm bảo đảm đồng bộ, thống nhất về các nội dung quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật. Nên chăng sửa đổi, bổ sung Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 theo hướng mọi người khuyết tật không phân biệt người có khó khăn về tài chính đều có quyền được trợ giúp pháp lý, như vậy sẽ bảo đảm tốt hơn quyền của người khuyết tật - đối tượng đặc thù cần được quan tâm đặc biệt.
Hai là, thực tế vẫn còn một số đối tượng thực sự có nhu cầu trợ giúp pháp lý, không có đủ điều kiện để sử dụng dịch vụ pháp lý có thu phí nhưng chưa được quy định thuộc diện trợ giúp pháp lý như người khuyết tật thuộc hộ mới thoát nghèo, người khuyết tật thuộc hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, ngư nghiệp có mức sống trung bình, hoặc trường hợp khác thực sự có nhu cầu trợ giúp pháp lý nhưng chưa được quy định thuộc diện được trợ giúp pháp lý… Bởi vì, điều kiện có khó khăn về tài chính được quy định tại Nghị định số 144/2017/NĐ-CP chỉ gồm người thuộc hộ cận nghèo hoặc người được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, trong khi trên thực tế điều kiện có khó khăn về tài chính rất đa dạng. Do đó, Điều 2 Nghị định số 144/2017/NĐ-CP nên được sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng điều kiện có khó khăn về tài chính đối với trường hợp hộ mới thoát nghèo, hộ có mức sống trung bình làm nông nghiệp, diêm nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, người lao động có thu nhập thấp, người có khó khăn đột xuất… Việc mở rộng thêm điều kiện có khó khăn về tài chính nhằm mở rộng quyền được trợ giúp pháp lý cho nhóm người thuộc quy định tại khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, trong đó có người khuyết tật có khó khăn về tài chính được tiếp cận quyền trợ giúp pháp lý[9] (trong trường hợp không thể quy định mở rộng diện được trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật như đề xuất nêu trên là áp dụng đối với mọi người khuyết tật mà không cần thêm điều kiện có khó khăn về tài chính)./.
Uyên Nhi
Được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024, Luật Tư pháp người chưa thành niên năm 2024.
Được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 03/2021/TT-BTP ngày 25/5/2021; Thông tư số 10/2023/TT-BTP ngày 29/12/2023; Thông tư số 08/2025/TT-BTP ngày 12/6/2025; Thông tư số 11/2025/TT-BTP ngày 25/6/2025.
Điều 2 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Khoản 1 Điều 2 Luật Người khuyết tật năm 2010.
Nghị định số 144/2017/NĐ-CP ngày 15/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Trợ giúp pháp lý.
Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Các điều 31, 32, 33 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017.
Tham khảo: Trịnh Thị Tuyết Mai, Quyền trợ giúp pháp lý của người khuyết tật theo quy định của pháp luật Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, https://www.quanlynhanuoc.vn/2024/08/22/quyen-tro-giup-phap-ly-cua-nguoi-khuyet-tat-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam/.
Tham khảo thêm: Nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp pháp lý cho người khuyết tật có khó khăn về tài chính, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-cac-don-vi-thuoc-bo.aspx?ItemID=5217.