Thứ sáu 06/06/2025 23:55
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sự chồng chéo giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị - Thực trạng và giải pháp

Bài viết tập trung phân tích những điểm chồng chéo, mâu thuẫn trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt, triển khai thực hiện giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị đã gây khó khăn cho cả người dân và cơ quan quản lý nhà nước; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục.

Bài viết tập trung phân tích những điểm chồng chéo, mâu thuẫn trong quá trình lập, thẩm định, phê duyệt, triển khai thực hiện giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị đã gây khó khăn cho cả người dân và cơ quan quản lý nhà nước; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục.

Hiện nay, tại một số khu vực đô thị như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương…[1], quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị (chủ yếu là quy hoạch phân khu) có hiện tượng mâu thuẫn, trùng lắp, khiến tình trạng người dân được chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở, đất sản xuất, kinh doanh nhưng lại không được cấp phép xây dựng (vì không phù hợp quy hoạch phân khu) hoặc được cấp phép xây dựng nhưng chỉ cấp phép xây dựng tạm, có thời hạn; hoặc người dân mua đất nhưng lại không được chuyển nhượng quyền sử dụng đất... Từ đó đã góp phần gây ra các khiếu nại, tố cáo về lĩnh vực đất đai, xây dựng cũng như hiện tượng xây dựng không phép tại các khu đô thị lớn.

1. Những điểm khác biệt trong quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng

Khoản 2 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định”. Khoản 4 Điều 3 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 quy định: “Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở để tạo lập môi trường sống thích hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị”. Về nguyên tắc, quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng phải có sự thống nhất cả về không gian và thời gian, phù hợp với nhau và hỗ trợ lẫn nhau trong việc thực hiện chức năng của mỗi loại quy hoạch[2]. Tuy nhiên, công tác lập quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng lại có những điểm khác biệt gây khó khăn cho cả người dân và cơ quan quản lý nhà nước. Cụ thể:

- Về thời kỳ (thời hạn) quy hoạch[3]: Giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng có thời kỳ quy hoạch là không thống nhất. Nếu quy hoạch sử dụng đất có thời gian quy hoạch là 10 năm, kỳ kế hoạch 5 năm thì quy hoạch xây dựng có thời hạn ngắn hạn là 5 năm, 10 năm; dài hạn là 20 năm và dài hơn.

- Về không gian và các loại hình, các cấp quy hoạch: Việc lập quy hoạch sử dụng đất được thực hiện theo đơn vị lãnh thổ hành chính, ngược lại, quy hoạch đô thị lại không hoàn toàn căn cứ theo đơn vị hành chính, khoản 1 Điều 18 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009 liệt kê các loại quy hoạch, trong đó, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết về cơ bản không căn cứ vào đơn vị hành chính.

- Về công tác thẩm định giữa hai loại quy hoạch trên còn thể hiện ở quy trình quyết định đối với mỗi loại quy hoạch:

Đối với quy hoạch sử dụng đất các cấp tỉnh, huyện, xã; cơ quan tài nguyên môi trường phải trình cơ quan tài nguyên môi trường cấp trên thẩm định nội dung và chỉnh sửa theo yêu cầu thẩm định. Sau khi hoàn thiện, thì cơ quan tài nguyên môi trường cấp nào trình Hội đồng nhân dân cấp lập quy hoạch thông qua trước khi trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.

Đối với quy hoạch xây dựng[4]:

+ Bộ Xây dựng có trách nhiệm lập nhiệm vụ quy hoạch, tổ chức lập, thẩm định quy hoạch xây dựng vùng trọng điểm, vùng liên tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; lập nhiệm vụ, tổ chức lập quy hoạch chung xây dựng, các đô thị mới liên tỉnh, các khu công nghệ cao, các khu kinh tế đặc thù trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt sau khi có ý kiến của các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh có liên quan.

+ Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập nhiệm vụ và phê duyệt quy hoạch xây dựng vùng thuộc địa giới hành chính do mình quản lý sau khi được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định; lập nhiệm vụ và tổ chức lập quy hoạch chung đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II trong phạm vi tỉnh trình Hội đồng nhân dân tỉnh thông qua, Bộ Xây dựng thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đối với đô thị loại III, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh lập nhiệm vụ và tổ chức lập quy hoạch chung xây dựng trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định; phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị loại đặc biệt, loại I, loại II và loại III.

+ Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm lập nhiệm vụ, tổ chức lập quy hoạch chung xây dựng các đô thị loại IV, loại V thuộc địa giới hành chính do mình quản lý trình Hội đồng nhân dân cấp huyện thông qua và trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt; phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị loại IV và loại V.

+ Ủy ban nhân dân cấp xã lập nhiệm vụ và tổ chức lập quy hoạch xây dựng các điểm dân cư nông thôn thuộc địa giới hành chính do mình quản lý, trình Hội đồng nhân dân cấp xã thông qua và trình Ủy ban nhân dân cấp huyện phê duyệt.

Riêng các quy hoạch do Trung ương phê duyệt được quy định Chính phủ phê duyệt (quy hoạch sử dụng đất); Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (quy hoạch chung xây dựng) và Bộ Xây dựng phê duyệt (quy hoạch chi tiết khu vực liên tỉnh). Đối với quy hoạch xây dựng, việc phân cấp thẩm quyền phê duyệt các loại quy hoạch không theo cấp hành chính lập quy hoạch mà theo loại hình quy hoạch và cấp loại đô thị.

- Về cách phân loại đất:

Quy hoạch sử dụng đất áp dụng hệ thống phân loại đất theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành, gồm các nhóm đất chính: Nhóm đất nông nghiệp, nhóm đất phi nông nghiệp và nhóm đất chư­a sử dụng (Điều 10 Luật Đất Đai năm 2013). Quy hoạch xây dựng áp dụng hệ thống phân loại đất gồm các loại: Đất dân dụng, đất ngoài dân dụng, đất khác. Mỗi loại đất cũng được phân thành các loại khác nhau.

Như vậy, tiêu chí phân loại đất của hai hệ thống rất khác nhau. Phân loại đất trong quy hoạch sử dụng đất được thực hiện theo mục đích sử dụng; còn trong quy hoạch xây dựng được thực hiện vừa theo mục đích sử dụng (theo quy hoạch), vừa theo khu vực chức năng trong quy hoạch nên dẫn đến tình trạng vừa thiếu tên loại đất để biểu thị hiện trạng sử dụng, vừa có sự trùng lặp (chẳng hạn như đất giao thông đô thị thuộc đất dân dụng và đất giao thông đối ngoại thuộc đất ngoài dân dụng). Do đó, cũng tạo ra sự khó khăn trong việc so sánh các chỉ tiêu về diện tích các loại đất giữa quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng.

- Về quản lý, thực hiện quy hoạch: Đối với quy hoạch sử dụng đất thì cơ chế giám sát và kiểm tra, tổ chức thực hiện được quy định thống nhất chung cho các cấp quy hoạch bởi các văn bản quy phạm pháp luật; còn đối với quy hoạch xây dựng, cơ chế giám sát và kiểm tra, tổ chức thực hiện chủ yếu được người phê duyệt quy định cụ thể cho từng đồ án quy hoạch mà chưa được quy định chung trong văn bản quy phạm pháp luật.

2. Một số giải pháp

Bên cạnh những vấn đề về pháp lý thì trên thực tế, việc lập quy hoạch sử dụng đất do cơ quan tài nguyên môi trường tham mưu chính, trong khi quy hoạch đô thị thường do cơ quan xây dựng, quản lý đô thị phụ trách. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân các cấp đóng vai trò chủ yếu trong việc điều phối công tác quản lý về đất đai và xây dựng trên địa bàn, điều đó có nghĩa, người lãnh đạo Ủy ban nhân dân các cấp hoàn toàn có thể kiểm tra, chỉ đạo kết hợp đối với các quy hoạch (bao gồm quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị). Tuy nhiên, với những phân tích ở trên, có thể thấy rằng, người có thẩm quyền lập, thẩm định, phê duyệt rất khó trực tiếp đối chiếu, so sánh sự giống và khác nhau giữa các quy hoạch. Trên thực tế, công việc lập quy hoạch thường do các đơn vị tư nhân tư vấn và người có thẩm quyền ký các văn bản trong toàn bộ quy trình không đủ chuyên môn sâu để kiểm tra chi tiết. Do đó, trong khi chờ đợi những điều chỉnh về quy định pháp luật, Ủy ban nhân dân các cấp cần tiến hành rà soát và điều chỉnh các quy hoạch trên cơ sở trực tiếp thăm nắm thực địa.

Trường hợp quy hoạch đô thị không phù hợp với Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, Kế hoạch sử dụng đất 5 năm thời kỳ đầu (2011 - 2015) các cấp và Kế hoạch sử dụng đất năm 2015 đã được phê duyệt (lỗi chủ quan của cơ quan quản lý nhà nước) thì các ngành cần điều chỉnh quy hoạch đô thị cho tương đồng, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đồng thời, đảm bảo cho các cá nhân, tổ chức thực hiện các quyền theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không thể thực hiện điều chỉnh quy hoạch đô thị như vướng các công trình hạ tầng kỹ thuật: Hệ thống giao thông đô thị, giao thông, điện, cấp thoát nước, trạm xử lý nước thải, nghĩa trang… không thể thực hiện điều chỉnh quy hoạch phân khu được, nhưng chưa được triển khai thực hiện và chưa có quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì tạo điều kiện cho người dân thực hiện các quyền. Ví dụ: Quyền xây dựng có thời hạn hoặc tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.

Bên cạnh đó, về lâu dài, các quy định pháp luật có liên quan cần được điều chỉnh theo hướng đảm bảo sự thống nhất giữa 02 loại quy hoạch này, cụ thể như:

- Quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia cần có tính tổng hợp, tính khái quát cao nhất, chỉ nên khái quát ở những loại đất chính trong từng nhóm đất, không nên quá chi tiết về loại đất.

- Mức độ chi tiết về nội dung của quy hoạch sử dụng đất các cấp tỉnh, huyện, xã cần tăng dần. Trong đó, quy hoạch sử dụng đất cấp xã có mức độ chi tiết cao nhất, được thể hiện cụ thể đến từng thửa đất, nhất là đối với nhóm đất phi nông nghiệp; là tài liệu chủ yếu để quản lý, theo dõi việc thực hiện các quy hoạch, trong đó, có quy hoạch đô thị.

- Quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch tổng thể, còn quy hoạch đô thị chính là quy hoạch sử dụng đất chi tiết cho vùng đô thị. Vì vậy, các chỉ tiêu về diện tích các loại đất trong quy hoạch xây dựng về nguyên tắc phải phù hợp với diện tích đã được quy hoạch sử dụng đất xác định và phân bổ.

- Tham khảo các nước cho thấy, hầu hết đều không có quy hoạch sử dụng đất riêng biệt, mà nó luôn gắn với bài toán quy hoạch chung sử dụng không gian cho mục tiêu phát triển bền vững. Ở hầu hết các nước, chỉ có một cơ quan quản lý về quy hoạch và có một loại quy hoạch tích hợp thống nhất. Tại Việt Nam, cơ quan trực tiếp thực hiện công tác quy hoạch được hiểu là Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp, tuy nhiên, cơ quan tham mưu chính lại được phân cho cơ quan tài nguyên môi trường, xây dựng, nông nghiệp và phát triển nông thôn, quản lý đô thị. Thực tiễn đã cho thấy rằng, cần sớm quy về một mối đối với công tác quy hoạch, các cơ quan khác chỉ đóng vai trò đóng góp, phản biện cho các quy hoạch.

ThS. Nguyễn Thị Thanh Mai

Phó Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh Bình Dương


[1] https://nld.com.vn/thoi-su/quy-hoach-dat-lam-dan-xat-bat-20180420215804419.htm.

https://tuoitre.vn/dan-kho-vi-quy-hoach-dat-hon-hop-va-dan-cu-xay-dung-moi-20180420113706143.htm.

https://viettimes.vn/khu-vuc-ga-ha-noi-se-duoc-quy-hoach-the-nao-164872.html.

Báo cáo kết quả giám sát công tác cải cách thủ tục hành chính về đất đai và xây dựng của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Dương năm 2017 nhận định: “Thực tế hiện nay nảy sinh bất cập là: Do quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch phân khu chức năng trên địa bàn tỉnh vẫn chưa hoàn chỉnh, còn chồng chéo, mâu thuẫn”.

[2] Khoản 2 Điều 4 Luật Quy hoạch 2017 quy định: “Bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa quy hoạch với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội bảo đảm kết hợp quản lý ngành với quản lý lãnh thổ; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường”.

[3] Điều 36, Điều 37 Luật Đất đai năm 2013; Điều 2 Nghị định số 37/2010/NĐ-CP ngày 07/4/2010 của Chính phủ về lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý quy hoạch đô thị; từ Điều 25 đến Điều 30 Luật Quy hoạch đô thị năm 2009.

[4] Tham khảo điểm 3 khoản 3 Điều 19; Điểm c khoản 2 Điều 26; Điều 33 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Điều 31 Nghị định số 37/2010/NĐ-CP.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm