Thứ ba 10/06/2025 13:17
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn xử lý kỷ luật lao động sa thải

Thực tiễn xử lý kỷ luật lao động sa thải

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật lao động sa thải theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019, đồng thời, chỉ ra một số bất cập trong thực tiễn áp dụng để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Abstract: The article researches and analyzes the legal provisions on disciplining employees who are laid off in accordance with the provisions of the Labor Code of 2019, and at the same time, points out a number of inadequacies in application practice to propose solution the completion of the law.

1. Các trường hợp bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lao động sa thải theo quy định của Bộ luật Lao động

Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019, các hành vi bị xử lý kỷ luật lao động sa thải bao gồm: (i) Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc; (ii) Người lao động có hành vi tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động; (iii) Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật; (iv) Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

Như vậy, so với Bộ luật Lao động năm 2012 quy định các trường hợp bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật lao động gồm có 03 nhóm hành vi[1], thì Bộ luật Lao động năm 2019 chia thành 04 nhóm hành vi bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải (tách các hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc thành một điều khoản riêng)[2] và bổ sung thêm hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc đồng thời quy định rõ về khoảng thời gian của hành vi tự ý bỏ việc (là 05 ngày cộng dồn trong vòng 30 ngày và 20 ngày cộng dồn trong vòng 365 ngày thay vì 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng và 20 ngày cộng dồn trong 01 năm như bộ luật trước đó)[3].

Thứ nhất, người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc.

Khi người lao động có một trong các hành vi vi phạm như trộm cắp, tham ô, đánh bạc... tại nơi làm việc thì người sử dụng lao động có căn cứ áp để áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải. Quy định này không bắt buộc là phải có hậu quả xảy ra (thiệt hại do hành vi vi phạm kỷ luật của người lao động gây ra) mà chỉ cần người lao động có hành vi là đủ điều kiện để áp dụng hình thức kỷ luật. Tuy nhiên, nếu như trong nội quy lao động của doanh nghiệp có quy định cụ thể về thiệt hại xảy ra mới áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải thì việc xử lý kỷ luật sẽ thực hiện theo nội quy của doanh nghiệp đó.

Vấn đề đặt ra trong thực tiễn của trường hợp này là: Các hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy là những hành vi được quy định trong lĩnh vực pháp luật chuyên ngành khác (luật hình sự, luật hành chính) và để khẳng định người lao động có một trong các hành vi nói trên hay không thì phải có sự kết luận của cơ quan chức năng có thẩm quyền (Cơ quan cảnh sát điều tra), khi đó người sử dụng mới có cơ sở để áp dụng xử lý kỷ luật sa thải. Nhưng, nếu như trong trường hợp người lao động có hành vi vi phạm kỷ luật và bản thân người lao động đã thừa nhận thì người sử dụng lao động có cơ sở để xử lý kỷ luật lao động ngay hay phải đợi có kết luận của cơ quan chức năng có thẩm quyền rồi mới được tiến hành?. Vấn đề này pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể.

Thứ hai, người lao động có hành vi tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người lao động hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong nội quy lao động.

Bí mật công nghệ kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động là một trong những bộ phận cấu thành nên tài sản của doanh nghiệp (tài sản vô hình)[4], có giá trị vô cùng quan trọng, thậm chí nó còn quyết định đến vận mệnh sống còn của doanh nghiệp, nhất là trong bối cảnh có nhiều biến động về cạnh tranh như hiện nay, nên việc bí mật công nghệ kinh doanh... nếu bị tiết lộ, xâm phạm sẽ gây tổn thất vô cùng to lớn cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hành vi của người lao động gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản cho người sử dụng lao động sẽ tác động tiêu cực và ảnh hưởng xấu tới quá trình sản xuất kinh doanh của người sử dụng lao động. Còn đối với hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, như đã đề cập trước đó, hành vi này không những gây tổn thương, xâm phạm về nhân phẩm cho người lao động mà còn ảnh hưởng chung đến trật tự trong môi trường làm việc, trái với đạo đức xã hội nên việc pháp luật quy định các hành vi này để xem xét áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải là hoàn toàn hợp lý.

Vấn đề đặt ra trong thực tiễn, đối với “bí mật công nghệ”, pháp luật hiện nay chưa có quy định cụ thể về khái niệm này, chỉ có các quy định về “bí quyết”, “công nghệ”, bí quyết công nghệ, bí quyết kỹ thuật theo Luật Chuyển giao công nghệ năm 2017. Do đó, nếu muốn sa thải người lao động vì cho rằng họ đã tiết lộ bí mật công nghệ, thì doanh nghiệp cần phải lưu ý về khả năng chứng minh trong trường hợp này là không khả thi. Do không có cơ sở để đối chiếu, so sánh, kết luận rằng thông tin bị tiết lộ có phải là bí mật công nghệ hay không. Đây cũng là một vướng mắc mà doanh nghiệp sẽ đối mặt nếu sau này phải giải quyết tranh chấp bằng con đường tố tụng tại Tòa án[5].

Thứ ba, người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật.

Mặc dù pháp luật không quy định cụ thể người lao động khi vi phạm hành vi nào, mức độ ra sao thì sẽ bị áp dụng hình thức kéo dài thời hạn nâng lương, cách chức mà nội dung này để cho người sử dụng lao động được quyền quy định. Tuy nhiên, từ thực tế cho thấy những người lao động bị áp dụng hình thức kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức thường là những trường hợp có hành vi vi phạm kỷ luật tương đối nghiêm trọng. Việc đặt ra thời gian xóa kỷ luật lao động nhằm để người sử dụng lao động thử thách người lao động, đồng thời cũng thông qua thời gian này người lao động có cơ hội chứng minh cho người sử dụng lao động thấy về việc tu dưỡng, rèn luyện, khắc phục những vi phạm của bản thân. Nhưng trong chính thời gian thử thách đó, người lao động lại tiếp tục tái phạm thì chứng tỏ người lao động không có ý chí sửa đổi những vi phạm mà mình đã mắc phải. Vì vậy, việc áp dụng hình thức kỷ luật sa thải trong trường hợp này là hợp lý.

Vấn đề đặt ra trong thực tiễn, mặc dù Bộ luật Lao động năm 2019 đã đưa ra quy định như thế nào là hành vi tái phạm nhằm khắc phục hạn chế của Bộ luật Lao động năm 2012. Tuy nhiên, việc xác định hành vi “tái phạm” theo Bộ luật Lao động năm 2019 chỉ căn cứ vào hành vi tuy dễ nhận diện nhưng lại mang tính “máy móc” và trong nhiều trường hợp chưa hợp lý. Bởi vì, trong nhiều trường hợp trong thời gian chấp hành kỷ luật ở hình thức kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức, người lao động lại có hành vi vi phạm ở mức tương đương thậm chí nghiêm trọng hơn (nặng hơn) nhưng lại không phải là lặp lại đúng hành vi vi phạm thì cũng sẽ không bị sa thải[6].

Thứ tư, người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

Đây là trường hợp pháp luật cho phép người sử dụng lao động sa thải người lao động vì sự vô ý thức, vô tổ chức của người lao động. Người lao động đã tự ý bỏ việc không có lý do chính đáng trong một thời gian nhất định. Điều này đã làm ảnh hưởng đến trật tự trong doanh nghiệp, ý thức chấp hành kỷ luật của người lao động và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, để áp dụng xử lý kỷ luật sa thải đối với hành vi này trong thực tiễn, người sử dụng lao động cần lưu ý đến hai vấn đề: (i) Người lao động tự ý bỏ việc phải đúng số ngày do luật định; (ii) Người lao động nghỉ việc không có lý do chính đáng, tức là những lý do không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019[7].

2. Một số kiến nghị

Thứ nhất, pháp luật cần quy định rõ trong trường hợp người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy tại nơi làm việc (hành vi này đã được mô tả trong nội quy lao động) mà người lao động đã thừa nhận thì người sử dụng lao động có được xử lý kỷ luật sa thải hay không, hay phải chờ kết luận của cơ quan chức năng có thẩm quyền.

Thứ hai, pháp luật cần quy định rõ như thế nào là “bí mật công nghệ” để làm căn cứ thuận lợi cho người sử dụng lao động áp dụng trong thực tiễn khi xử lý kỷ luật sa thải người lao động với hành vi tiết lộ vi tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh, bí mật công nghệ để tránh trường hợp xảy ra tranh chấp khi giải quyết tại Tòa án, đồng thời, cũng thuận lợi cho các cơ quan thực thi pháp luật khi giải quyết tranh chấp.

Thứ ba, cần xem xét trường hợp trong thời gian chấp hành kỷ luật ở hình thức kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức, người lao động lại có hành vi vi phạm ở mức tương đương hoặc nghiêm trọng hơn (nặng hơn) thì có thể xem xét để áp dụng kỷ luật sa thải hay không.

ThS. Tô Duy Khâm

Giảng viên Phân hiệu Trường Đại học Luật Hà Nội tại tỉnh Đắk Lắk

[1]. Xem: Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2012.

[2]. Việc Bộ luật Lao động tách riêng các hành vi này thành một điều khoản riêng và không buộc quy định trong nội quy lao động sẽ tạo điều kiện để người sử dụng lao động có thể căn cứ vào pháp luật để xử lý kỷ luật mà không cần phải căn cứ vào nội quy lao động.

[3]. Xem: Khoản 3 Điều 126 Bộ luật Lao động năm 2012 và khoản 4 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019.

[4]. Thông tư số 06/2014/TT-BTC ngày 07/01/2014 của Bộ Tài chính ban hành Tiêu chuẩn thẩm định giá số 13.

[5]. TS. Đào Mộng Điệp (chủ biên). Trường Đại học Luật, Đại học Huế. Bình luận khoa học một số nội dung cơ bản của Bộ luật Lao động năm 2019. Nxb. Công an nhân dân, năm 2021, tr. 240.

[6]. PGS.TS. Nguyễn Hữu Chí và TS. Nguyễn Văn Bình (đồng chủ biên). Bình luận khoa học Bộ luật Lao động năm 2019. Nxb. Tư pháp, năm 2021, tr. 328.

[7]. Trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm thiên tai, hỏa hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 382), tháng 6/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm