Thứ sáu 13/06/2025 07:51
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015

Vũ khí theo nghĩa Hán - Việt: Vũ là võ thuật, quân sự; khí là đồ dùng, là các đồ vật được sử dụng để chiến đấu. Tất cả các vật dụng có thể dùng vào việc chiến đấu đều được gọi là vũ khí[1]. Còn vũ khí quân dụng là các loại vũ khí được trang bị cho quân sự dùng vào mục đích quốc phòng.


Phương tiện kỹ thuật quân sự là các loại xe, khí tài, phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Pháp lệnh số 16/2011/UBTV/QH12 ngày 30/06/2011 của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Pháp lệnh số 16/2011) quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; trách nhiệm quản lý nhà nước đối với vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tại Điều 12 của Pháp lệnh số 16/2011 đã xác định việc nghiên cứu, chế tạo, sản xuất, sửa chữa vũ khí; xác định đối tượng được trang bị vũ khí quân dụng bao gồm quân đội nhân dân, công an nhân dân, qân quân tự vệ, kiểm lâm, lực lượng chuyên trách chống buôn lậu của hải quan, đơn vị hải quan cửa khẩu, an ninh hàng không.

Vũ khí quân dụng theo Pháp lệnh số 16/2011 gồm: Các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thanh; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hóa chất độc và nguồn phóng xạ; các loại đạn, bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, vật liệu nổ quân dụng, hỏa cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng. Phương tiện kỹ thuật quân sự gồm: Xe ô tô, xe kéo, khí tài ra đa, cầu phao... phương tiện khác được thiết kế, chế tạo và trang bị cho lực lượng vũ trang để huấn luyện, chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 95 Mục B Chương I - Các Tội xâm phạm an ninh quốc gia Bộ luật Hình sự năm 1985 và đến Bộ luật Hình sự năm 1999 tội danh này được quy định tại Điều 230 Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Hiện nay, Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được quy định tại Điều 304 mục 3 Chương XXI - Các Tội khác xâm phạm an toàn công cộng Bộ luật Hình sự năm 2015. Trong quá trình áp dụng pháp luật, chúng tôi thấy, còn một số vướng mắc, bất cập trong áp dụng Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 và cho đến hiện nay các quy định tại Điều 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng chưa phù hợp. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này cùng với việc nêu ra những vướng mắc, bất cập quy định tại Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999, chúng tôi cũng xin nêu ra những kiến nghị sửa đổi Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho phù hợp.

Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định:

1. Người nào chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình."

Trong quá trình áp dụng pháp luật để xử lý Tội chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự theo Bộ luật Hình sự năm 1985 đã gặp phải nhiều khó khăn, vướng mắc. Do đó, ngày 07/01/1995, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên ngành số 01/TTLN hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong việc xử lý đối với các hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Đến Bộ luật Hình sự năm 1999, tội danh này đã được sửa đổi bổ sung và quy định tại Điều 230 của Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, với nội dung như sau:

1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

đ) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm".

Như vậy, so với Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những quy định khác, quy định bổ sung, đó là, Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự không còn được quy định tại Chương I - Các Tội xâm phạm an ninh quốc gia, mà được quy định tại Chương XIX - Các Tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Đã tội phạm hoá hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Do đó, trong cấu thành cơ bản của tội danh này đã bổ sung thêm hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Bên cạnh đó, hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự qua biên giới được quy định tại khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 là một tình tiết định khung tăng nặng. Đã quy định hình phạt tiền, phạt quản chế hoặc cấm cư trú là hình phạt bổ sung trong phần chế tài của Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Đã phân chia khoản 3 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 thành khoản 3 và khoản 4 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999, đồng thời thu hẹp khoảng cách mức hình phạt tối đa và tối thiểu trong các khung hình phạt. Bỏ hình phạt tử hình trong phần chế tài của Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985. Những quy định trên hoàn toàn phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.

Tuy nhiên, quá trình áp dụng Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 đã bộc lộ một số vướng mắc trong việc xử lý đối với tội danh này mà chưa có văn bản pháp luật nào thay thế cho Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành tội danh này. Do vậy, hiện nay khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995, mặc dù thông tư liên ngành này quy định còn chưa đầy đủ có nhiều hạn chế. Mặt khác, Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 có nhiều quy định khác với Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985, do đó, trong quá trình áp dụng pháp luật các cơ quan tiến hành tố tụng đã gặp phải nhiều vướng mắc đó là:

- Thông tư liên ngành số 01/TTLN chỉ hướng dẫn các hành vi chế tạo, tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, mà chưa có hướng dẫn hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.

- Thông tư liên ngành số 01/1995 đã quy định số lượng cụ thể vật phạm pháp đối với một số đối tượng phổ biến như súng, đạn, lựu đạn, thuốc nổ, kíp mìn, nụ xuỳ, dây cháy chậm, dây nổ để truy cứu trách nhiệm hình sự theo các khoản 1, khoản 2 và khoản 3 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 nhưng cũng mới chỉ đề cập đến các đối tượng là vũ khí quân dụng, còn các đối tượng khác, đặc biệt các đối tượng là phương tiện kỹ thuật quân sự thì chưa có quy định.

- Chỉ quy định số lượng cụ thể vật phạm pháp để xác định thế nào là “vật phạm pháp có số lượng lớn” chứ chưa có quy định để xác định thế nào là “vật phạm pháp có số lượng rất lớn” và “vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn”.

- Thông tư liên ngành số 01/TTLN chưa có hướng dẫn chung về việc phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm năm 1985 và nay là điểm d khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 mà chỉ có hướng dẫn một số trường hợp cụ thể như: Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng mà gây hậu quả làm chết người, gây tổn hại sức khoẻ cho người khác, gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 2 Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 và nay là điểm d khoản 2 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 về Tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, với tình tiết định khung tăng nặng là gây hậu quả nghiêm trọng.

Những quy định nêu trên của Thông tư liên ngành 01/1995 chưa bao quát hết các trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra trong thực tế, đặc biệt chưa có quy định thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để xử lý tội phạm theo khoản 3 và khoản 4 Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Từ những vướng mắc, bất cập và với những phân tích, lập luận nêu trên, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 và nay là Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

Về Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 hiện nay quy định: Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Như vậy, trong điều luật này quy định sáu hành vi được coi là tội phạm gồm: Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; mua bán trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.

Chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là làm mới hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận của vũ khí, phương tiện và có giá trị sử dụng theo tính năng tác dụng của chúng. Hành vi làm mới hoàn toàn súng được coi là chế tạo vũ khí quân dụng nếu đạn dùng cho súng là đạn dùng cho các vũ khí quân dụng; tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là cất, giữ vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép; vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự được hiểu là hành vi đưa các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự từ nơi này tới nơi khác mà không được cơ quan thẩm quyền cho phép; sử dụng trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là sử dụng không có giấy phép của cơ quan Nhà nưóc có thẩm quyền; chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự bao gồm các hành vi cướp, cưỡng đoạt, cướp giật, công nhiên chiếm đoạt, tham ô, trộm cắp, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc dùng các thủ đoạn khác chiêm đoạt tài sản các đôi tượng nói trên. Cũng được coi là chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự các hành vi của quân nhân, nhân viên, công nhân quốc phòng và những người khác được trang bị trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự để huấn luyện chiến đấu hoặc thực hiện nhiệm vụ trong thời gian công tác, khi xuất ngũ, chuyển ngành, về hưu mà không còn được phép sử dụng nhưng đã không giao nộp lại theo quy định.

Trước đây, các quy định tại Điều 95 Bộ luật Hình sự năm 1985 và Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định chung chung không quy định định lượng cụ thể trong các điều luật, nay theo Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đưa các quy định cụ thể của Thông tư liên tịch 01/1995 và Pháp lệnh 16/2011 vào trong luật lượng hóa định lượng trong mỗi hành vi phạm tội. Tuy nhiên, do hạn chế, thiếu sót của nhiều nội dung trong Bộ luật Hình sự năm 2015 nên dù chưa có hiệu lực thi hành chính thức, nhưng Quốc hội đã có Nghị quyết sửa đổi một số nội dung của Bộ luật Hình sự năm 2015, trong đó có việc sửa đổi tội danh này. Hiện nay, khi tiếp tục xin ý kiến các cơ quan chức năng trong việc sửa đổi điều luật này cũng còn có rất nhiều quan điểm khác nhau chưa thống nhất được, đặc biệt là có hay không lượng hóa các quy định của Thông tư 01/1995 và Pháp lệnh 16/2011 vào trong điều luật như hiện nay.

Hầu hết các ý kiến của các nhà nghiên cứu chế tạo, quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì đều nêu quan điểm cho rằng không nên quy định định lượng cụ thể và tên các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vào trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Còn ý kiến quan điểm của các nhà xây dựng luật và các cơ quan trực tiếp thực thi pháp luật thì cơ bản thống nhất phải lượng hóa và quy định cụ thể các loại vũ khí, số lượng, khối lượng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự vào trong luật như hiện nay.

Qua các cuộc hội thảo và ý kiến của các chuyên gia chúng tôi thấy mỗi quan điểm đều có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, việc lượng hóa hay không lượng hóa các quy định của thông tư vào luật thì đều có những thuận lợi nhưng cũng có những bất cập của nó, đó là:

- Về thuận lợi, nếu quy định cụ thể trong luật thì tính pháp lý sẽ cao hơn, dễ áp dụng cho những người thi hành pháp luật trong việc định tội danh, định khung hình phạt, giảm bớt việc ban hành các văn bản dưới luật như thông tư, pháp lệnh hướng dẫn thi hành.

- Về khó khăn, theo quan điểm của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo, quản lý các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự thì việc lượng hóa vào trong luật số lượng, khối lượng cụ thể của các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự sẽ dẫn đến một tình trạng sẽ không đầy đủ; mặt khác do việc phát triển của vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mới liên tục phát triển. Vì vậy, khi các loại vũ khí phương tiện kỹ thuật quân sự mới này ra đời thì sẽ lại phải sửa luật mà việc sửa luật lại không phải thực hiện được ngay, do vậy sẽ không đáp ứng được tính kịp thời của pháp luật dẫn đến khó thực hiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng, còn việc để các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành thì việc sửa đổi sẽ dễ dàng hơn.

Từ thực tiễn trên, theo chúng tôi, do sự phát triển của tình hình, để phù hợp thông lệ xây dựng luật pháp các nước trên thế giới và thực tiễn của Việt Nam thì việc lượng hóa các định lượng cụ thể trong mỗi tội phạm cấu thành vật chất quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 là hoàn toàn phù hợp và cần thiết, tránh được hướng dẫn sau khi luật ra đời lại chờ thông tư hướng dẫn của các ngành dẫn đến hiệu lực thi hành pháp luật sẽ hạn chế, làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ khó khăn trong áp dụng. Tuy nhiên, quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 như hiện tại chúng tôi thấy chưa đầy đủ. Cho nên, chúng tôi đề nghị bổ sung vào Điều 304 một nội dung quy định về các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng, tác dụng tương tự. Đây là một quy định nhằm dự liệu cho tình huống phát triển của các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự mới phát triển.

Còn quan điểm không lượng hóa vào trong luật các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, theo chúng tôi là không phù hợp, vì tất cả các loại tội có cấu thành vật chất như trên đã đề cập thì nay Bộ luật Hình sự hầu như đã lượng hóa tất cả vào mỗi điều luật cụ thể. Do vậy, để thống nhất và có tính đồng bộ thì các tội về vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự cũng phải lượng hóa vào luật là hoàn toàn phù hợp và cần thiết.

Ngoài ra, định lượng quy định của Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng còn chưa phù hợp như: Chưa có quy khối lượng thuốc nổ bị chiếm đoạt từ trên 30 gam đến dưới 31 gam thì xử lý thế nào; chưa quy định định số lượng cụ thể của các phương tiện kỹ thuật quân sự; dùng chữ “ly” để xác định cỡ nòng của các loại súng, pháo là không đúng. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung lại các nội dung này cho đúng và phù hợp.

Từ những phân tích trên chúng tôi kiến nghị sửa và thiết kế lại tội danh ở Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015, như sau:

Điều 304. Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự

1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép, chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự hoặc các loại vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Có tổ chức;

b) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 03 đến 10 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 01 đến 05 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25 mm, súng B40, B41 và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 05 đến 15 quả mìn, lựu đạn và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 03 đến 10 quả đạn cối, đạn pháo và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 300 đến 1.000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 200 đến 600 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7 mm đến 25 mm và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 10 kilôgam đến dưới 31 kilôgam thuốc nổ các loại hoặc từ 1.000 đến 3.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ; từ 3.000 mét đến dưới 10.000 mét dây cháy chậm, dây nổ.

c) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 02 xe ô tô, 02 xe cầu phà, 02 đến 10 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;

d) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

đ) Làm chết 01 người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

g) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

h) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a) Làm chết 02 người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%;

d) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

đ) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 11 đến 30 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên và các loại vũ khí khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 6 đến 20 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25mm, súng B40, B41 và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 16 đến 45 quả mìn, lựu đạn; từ 11 đến 30 quả đạn cối, đạn pháo và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 1.001 đến 3000 viên đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 601 đến 2.000 viên đạn súng máy cao xạ cỡ 12,7mm đến 25 mm và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 31 kilôgam đến dưới 101 kilôgam thuốc nổ các loại; từ 3.001 đến 10.000 nụ xuỳ hoặc ống nổ hoặc từ 10.000 mét đến dưới 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ.

e) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 04 xe ô tô, 04 xe cầu phà, 11 đến 20 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát, ra đa và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

a) Vật phạm pháp là vũ khí quân dụng có số lượng: từ 31 khẩu súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên trở lên; từ 21 khẩu súng bộ binh khác như trung liên, đại liên, súng máy cao xạ 12,7 mm đến 25 mm, súng B40, B41 trở lên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 46 quả mìn, lựu đạn trở lên và các loại vũ khí khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 31 quả đạn cối, đạn pháo trở lên và các loại vũ khí quân dụng khác trang bị cho quốc phòng có tính năng, tác dụng tương tự; từ 3001 viên đạn trở lên (đạn bộ binh cỡ 11,43 mm trở xuống); từ 2.001 viên đạn súng máy cao xạ trở lên (đạn cỡ 12,7 mm đến 25 mm); từ 101 kilôgam trở lên thuốc nổ các loại; từ 10.001 nụ xuỳ hoặc ống nổ trở lên hoặc từ 30.000 mét dây cháy chậm, dây nổ trở lên.

b) Vật phạm pháp là phương tiện kỹ thuật quân sự có số lượng: 06 xe ô tô, 06 xe cầu phà, trên 20 khí tài phòng hóa, dụng cụ quan sát, ra đa và các loại phương tiện kỹ thuật quân sự khác có tính năng tương tự;

c) Làm chết 03 người trở lên;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người với tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;

e) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.

Vũ Thành Long
Tòa án quân sự Trung ương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm