Thứ bảy 21/06/2025 05:53
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Ủy thác về nơi có trụ sở: Đúng hay sai?

Trong bài viết này, từ một tình huống trên thực tế về việc ủy thác thi hành án dân sự về nơi có trụ sở của doanh nghiệp, tác giả nêu lên quan điểm cá nhân và phân tích để làm rõ nhận định của mình.


Khoản 1 Điều 55 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ dung năm 2014) quy định: Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở. Như vậy, cơ quan thi hành án dân sự nơi nhận ủy thác là cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có một trong các điều kiện: Nơi có tài sản, nơi làm việc, nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở. Nơi cư trú là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của công dân được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền theo Luật Cư trú. Nơi có trụ sở (đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp): Trụ sở doanh nghiệp là nơi đặt cơ quan điều hành của doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở của doanh nghiệp phải được đăng ký chính thức với cơ quan đăng ký kinh doanh. Nếu có nhu cầu thay đổi địa chỉ trụ sở, doanh nghiệp phải đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh trước khi thực hiện việc thay đổi, trụ sở của doanh nghiệp không nhất thiết là nơi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc nơi có hộ khẩu thường trú của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể có nhiều cơ sở kinh doanh ở những nơi khác nhau nhưng chỉ có một trụ sở giao dịch. Để tránh nhầm lẫn, trụ sở này thường được gọi là trụ sở chính của doanh nghiệp. Trụ sở doanh nghiệp mang tính pháp lý nhiều hơn là tính không gian.

Điều 43 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Địa chỉ công ty hay chính xác là trụ sở chính của doanh nghiệp là địa điểm liên lạc của doanh nghiệp trên lãnh thổ Việt Nam, có địa chỉ được xác định gồm số nhà, ngách, hẻm, ngõ phố, phố, đường, hoặc thôn, xóm, ấp, xã, phường, thị trấn, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, số điện thoại, số fax và thư điện tử (nếu có). Trụ sở chính được coi là tài sản hợp pháp của doanh nghiệp.

Đối với công dân, cũng có quy định tương tự như: Nơi thường trú của công dân là nơi sinh sống thường xuyên, ổn định không có thời hạn tại một nơi ở nhất định và đã đăng ký thường trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Như vậy, nơi cư trú bao gồm cả nơi thường trú và nơi tạm trú. Đối với tổ chức, doanh nghiệp, cũng có quy định về nơi có trụ sở theo Luật Doanh nghiệp. Ngoài trụ sở chính được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, tổ chức, doanh nghiệp có thể có nhiều cơ sở kinh doanh, chi nhánh, văn phòng đại diện ở những địa chỉ khác nhau và được đăng ký theo quy định của pháp luật.

Tác giả xin nêu một tình huống còn có những quan điểm khác nhau như sau:

Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 04/2018/QĐST-KDTM ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố H có nội dung: Công ty TNHH đầu tư thương mại S, địa chỉ trụ sở tại số 52 MK, phường MK, quận B, thành phố H phải trả cho Ngân hàng V, địa chỉ trụ sở tại 72 ĐH, quận K, thành phố H tổng số tiền là 15,7 tỷ đồng, trong đó, gốc là 7,2 tỷ đồng, lãi phát sinh là 8,5 tỷ đồng và lãi phát sinh trên số nợ gốc từ ngày 26/01/2018, mức lãi suất là 15%/năm tương ứng với thời gian chậm trả. Nếu Công ty TNHH đầu tư thương mại S vi phạm nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự thu hồi, phát mãi toàn bộ tài sản bảo đảm gồm:

- Nhà và đất (diện tích 72m²) tại phường HV, thành phố G, tỉnh G, bảo đảm cho khoản gốc là 2 tỷ đồng và khoản lãi là 2,4 tỷ đồng;

- Quyền sử dụng đất (diện tích 759m²) tại xã ĐC, thị xã T, thành phố H bảo đảm cho khoản gốc là 1 tỷ đồng và lãi là 1,2 tỷ đồng;

- Quyền sử dụng đất (diện tích 111,9m²) tại phường QN, thị xã T, thành phố H bảo đảm cho khoản gốc là 3,4 tỷ đồng và khoản lãi là 4 tỷ đồng;

- Ba xe ô tô bảo đảm cho tổng khoản gốc là 0,8 tỷ đồng và tổng khoản lãi là 0,9 tỷ đồng.

Công ty TNHH đầu tư thương mại S đã thực hiện nghĩa vụ trả nợ với số tiền là 2,1 tỷ đồng và xử lý xong tài sản bảo đảm là nhà và đất (diện tích 72m²) tại tỉnh G. Số tiền còn lại là 13,6 tỷ đồng, trong đó, gốc là 5,1 tỷ đồng và lãi là 8,5 tỷ đồng. Công ty TNHH đầu tư thương mại S không trả được nợ và Ngân hàng V đã có đơn yêu cầu thi hành án ghi ngày 15/3/2018, Chi cục Thi hành án dân sự quận B đã nhận đơn và ra Quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu số 525/QĐ-CCTHADS ngày 21/3/2018 để thi hành khoản phải thanh toán trên. Nếu Công ty TNHH đầu tư thương mại S không trả nợ thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm là những tài sản nêu trên (trừ nhà và đất tại tỉnh G do đã được xử lý xong).

Chi cục Thi hành án dân sự quận B xác minh tài khoản tại các ngân hàng đều thể hiện Công ty TNHH đầu tư thương mại S không có khả năng trả nợ; xác minh tại các cơ quan đăng ký kinh doanh thì Công ty TNHH đầu tư thương mại S đều có địa chỉ đã được cơ quan có thẩm quyền đăng ký là tại số 52 MK, phường MK, quận B, thành phố H, Việt Nam; xác minh điều kiện thi hành án của Công ty TNHH đầu tư thương mại S tại địa chỉ này, kết quả khẳng định, không có Công ty TNHH đầu tư thương mại S, không có biển tên, không có tài sản của công ty, chính quyền cũng không biết Công ty TNHH đầu tư thương mại S ở đâu.

Từ đó, Chi cục Thi hành án dân sự quận B thu hồi quyết định thi hành án số 525/QĐ-CCTHADS ngày 21/3/2018 và ra quyết định ủy thác cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T, thành phố H tiếp tục thi hành khoản trả nợ Ngân hàng V số tiền là 13,6 tỷ đồng, trong đó, gốc là 5,1 tỷ đồng và lãi là 8,5 đồng. Nếu Công ty TNHH đầu tư thương mại S không trả nợ thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu xử lý tài sản bảo đảm nêu trên (trừ nhà và đất tại tỉnh G).

Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T đã ra quyết định thi hành án số 349/QĐ-CCTHADS ngày 22/3/2019 để thi hành khoản trên. Đến ngày 20/9/2019 đã xử lý xong các loại tài sản gồm 02 quyền sử dụng đất và 02 xe ô tô, còn một chiếc xe ô tô thì được xác định là không có ở địa bàn thị xã T, thành phố H. Tại Biên bản giải quyết việc thi hành án ngày 20/9/2019, đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng V đã xác định: Ngay trước và sau khi Chi cục Thi hành án dân sự quận B ủy thác, chiếc xe này đã được xác định là không có ở địa bàn thị xã T và đề nghị Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T ủy thác về cho Chi cục Thi hành án dân sự quận B tiếp tục thi hành khoản còn lại và xử lý chiếc xe trên theo quy định.

Căn cứ quy định pháp luật và thực tế hồ sơ, Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T ra quyết định ủy thác cho Chi cục Thi hành án dân sự quận B là nơi có trụ sở của Công ty TNHH đầu tư thương mại S tiếp tục thi hành khoản phải trả với số tiền 9 tỷ đồng, trong đó, gốc là 0,7 tỷ đồng và lãi là 8,3 tỷ đồng. Nếu Công ty TNHH đầu tư thương mại S không trả nợ thì Ngân hàng V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mại tài sản bảo đảm là chiếc xe ô tô nêu trên.

Chi cục Thi hành án dân sự quận B không nhận và ra công văn trả lại hồ sơ ủy thác thi hành án cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T với lý do: Thực tế Công ty TNHH đầu tư thương mại S không còn hoạt động tại số 52 MK, phường MK, quận B, thành phố H. Với tài liệu chứng minh là Thông báo số 1589/TB-BKD-KT1 ngày 04/02/2016 của Chi cục thuế quận B về việc cơ sở kinh doanh bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh mang theo hóa đơn không kê khai với cơ quan thuế; tại Văn bản số 1170/CCTT-ĐKKD ngày 28/5/2018 của Phòng Đăng ký kinh doanh - Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố H cung cấp thông tin là ngày 26/12/2017 đã ban hành quyết định về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với Công ty TNHH đầu tư thương mại S. Do vậy, không còn trụ sở của Công ty TNHH đầu tư thương mại S ở số 52 MK, phường MK, quận B, thành phố H và việc ủy thác của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã T cho cơ quan thi hành án dân sự quận B là nơi có trụ sở của người phải thi hành án là chưa đúng quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) và khoản 5 Điều 16 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).

Như vậy, vấn đề được đặt ra là, việc ủy thác của cơ quan thi hành án thị xã T là đúng hay sai? Cơ quan thi hành án dân sự quận B có được trả lại ủy thác hay không?

Theo Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP có hiệu lực kể từ ngày 01/5/2020, khoản 9 Điều 1 sửa đổi, bổ sung khoản 1, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều Nghị định số 62/2015/NĐ-CP như sau:

“Căn cứ bản án, quyết định được thi hành án hoặc kết quả xác minh, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở...”.

Với quy định này, quan điểm của tác giả cho rằng: Việc ủy thác của cơ quan thi hành án thị xã T là đúng vì trụ sở của Công ty TNHH đầu tư thương mại S được xác định rõ trong bản án, phù hợp với Điều 43 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định rất cụ thể về địa chỉ của doanh nghiệp. Mặc dù có thông báo về việc cơ sở kinh doanh bỏ địa chỉ đăng ký kinh doanh và văn bản cung cấp thông tin là đã ban hành quyết định về việc thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với Công ty TNHH đầu tư thương mại S như đã nêu trên, nhưng tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 04/2018/QĐST-KDTM ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận B vẫn thể hiện rõ là Công ty TNHH đầu tư thương mại S có trụ sở tại số 52 MK, phường MK, quận B, thành phố H, Việt Nam.

Tác giả rất mong nhận được sự phân tích, trao đổi kinh nghiệm của các nhà khoa học, đồng nghiệp… để đưa ra quan điểm đúng đắn nhất cho tình huống nêu trên.

Văn Hồng Yên
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Sơn Tây, TP. Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm