Thứ hai 08/12/2025 08:16
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vướng mắc trong thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật và thụ lý ly hôn

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001 và nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, vào thời điểm Luật này được ban hành thì chưa có Bộ luật Tố tụng dân sự.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2001 và nhiều văn bản hướng dẫn được ban hành đã tạo ra cơ sở pháp lý để các cơ quan giải quyết các tranh chấp. Tuy nhiên, vào thời điểm Luật này được ban hành thì chưa có Bộ luật Tố tụng dân sự. Hiện nay, nhiều quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2010 nhưng còn mang tính tình thế, nên nhiều quy định của hai văn bản luật này thiếu thống nhất dẫn đến việc áp dụng pháp luật tùy tiện làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể liên quan

1. Về người có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật

Khoản 2 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 9 và Điều 10 của Luật này”. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 không quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự, nên Viện kiểm sát nhân dân không có quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật. Vì vậy, khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình cần bỏ quyền khởi kiện của Viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp.

Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định: “Cơ quan dân số và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ trong phạm vi, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp Luật Hôn nhân và gia đình quy định”.

Theo khoản 3 Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình, thì Ủy ban Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em (nay là Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em), Hội Liên hiệp Phụ nữ có quyền yều cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trước đây, theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án thụ lý yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật là vụ án dân sự (vừa giải quyết chấm dứt quan hệ trái pháp luật, vừa giải quyết tài sản, nuôi con). Hiện nay, theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, thì hủy việc kết hôn trái pháp luật là yêu cầu về hôn nhân gia đình (việc dân sự), trong khi đó, Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự lại chỉ giới hạn quyền khởi kiện “vụ án”. Sự thiếu thống nhất giữa Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau: Cách hiểu thứ nhất, hiện nay việc hủy kết hôn trái pháp luật (mặc dù là việc dân sự) nhưng Ủy ban Dân số, gia đình và trẻ em, Hội Liên hiệp Phụ nữ vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án vì lợi ích chung để được bảo vệ lợi ích của các chủ thể do họ “không biết” hoặc “không dám” yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật; Cách hiểu thứ hai, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định quyền khởi kiện vụ án nên việc dân sự không thuộc thẩm quyền của cơ quan này, mặt khác, Điều 312 của Bộ luật Tố tụng dân sự chỉ đề cập về đơn yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự của mình chứ không yêu cầu khởi kiện vì lợi ích chung. Vì vậy, nếu các cơ quan, tổ chức trên khởi kiện yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện do không đúng thẩm quyền.

Theo chúng tôi, cần sửa đổi quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho thống nhất với Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, mặt khác Điều 162 Bộ luật Tố tụng dân sự cũng cần điều chỉnh quyền khởi kiện vụ, việc dân sự để mở rộng phạm vi quyền khởi kiện vì lợi ích chung.

2. Quyền yêu cầu ly hôn (trong trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn)

Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 về thụ lý đơn yêu cầu ly hôn, quy định: “Tòa án thụ lý đơn yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Trường hợp không có đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này; nếu có yêu cầu về quyền nuôi con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 17 Luật này”.

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 quy định những tranh chấp về hôn nhân gia đình (tại Điều 27) và những yêu cầu về hôn nhân gia đình (Điều 28) thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bên cạnh đó, theo Nghị quyết số 35/2010/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010, thì những trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác tính theo mốc thời gian trước ngày 03/01/1987 được công nhận là vợ chồng; từ ngày 03/01/1987 đến trước ngày 01/01/2001 phải đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm và từ ngày 01/01/2001 thì không được công nhận là vợ chồng. Hiện nay, việc thụ lý giải quyết các trường hợp có đơn yêu cầu ly hôn theo mốc thời gian mà Nghị quyết 35 của Quốc hội quy định còn lúng túng, cụ thể:

Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn khác trước ngày 03/01/1987 không có giấy chứng nhận kết hôn, nên thông thường đưa ra các chứng cứ (sổ hộ khẩu, giấy khai sinh con chung của hai người,...) hoặc có xác nhận của Ủy ban nhân dân nơi cư trú thì được Tòa án thụ lý. Thực tế, có những trường hợp chuyển địa điểm cư trú hoặc Ủy ban nhân dân không xác nhận, thì rất khó khăn để được Tòa án thụ lý vụ án ly hôn.

Đối với trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn nhưng không vi phạm các điều kiện kết hôn từ ngày 01/01/2001 thì còn lúng túng, chẳng hạn: Anh Hòa và chị Thanh (cư trú tại thành phố M) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2004 không có đăng ký kết hôn. Hai người sinh được một người con chung là cháu Tân vào năm 2006. Năm 2008, anh Hòa vào thành phố Hồ Chí Minh làm ăn có quen biết với chị Thoa và tháng 9/2011 đưa chị Thoa về quê (thành phố M) đăng ký kết hôn. Chị Thanh đến đánh ghen và có đơn gửi Uỷ ban nhân dân các cấp yêu cầu không được đăng ký kết hôn vì chị đang là vợ hợp pháp. Uỷ ban nhân dân tiến hành hòa giải để anh Hòa và chị Thanh giải quyết ổn thỏa chuyện gia đình mới tiến hành đăng ký kết hôn với chị Thoa. Vì vậy, tháng 2/2012 anh Hòa có đơn gửi Tòa án thành phố M yêu cầu ly hôn với chị Thanh. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện vì không xuất trình được giấy đăng ký kết hôn. Anh Hòa khiếu nại theo pháp luật tố tụng dân sự về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Hiện nay, có các ý kiến khác nhau như sau: Ý kiến thứ nhất cho rằng, Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn theo Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, sau đó tuyên bố không công nhận vợ chồng theo khoản 1 Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình; Ý kiến thứ hai cho rằng, nếu thụ lý yêu cầu ly hôn là sai vì đoạn 2 Điều 87 chỉ ghi Tòa án “thụ lý” mà không rõ thụ lý yêu cầu gì? Nếu Tòa án thụ lý yêu cầu ly hôn thì phải có giấy tờ chứng minh là vợ chồng, chứ không thể thụ lý tùy tiện; Ý kiến thứ ba cho rằng, phải xem xét hai trường hợp: Nếu anh Hòa chỉ yêu cầu giải quyết quan hệ nhân thân (tuyên bố chấm dứt quan hệ với chị Thanh) thì không xem xét giải quyết. Việc Tòa án tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng là không cần thiết, vì thực chất họ không phải là vợ chồng thì Tòa án tuyên bố không có ý nghĩa; nếu anh Hòa yêu cầu giải quyết việc nuôi con hoặc tranh chấp tài sản chung thì xem xét giải quyết (hậu quả của việc sống chung) mà thôi.

Chúng tôi cho rằng, ý kiến thứ ba là hợp lý, vì Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định không rõ ràng về điều kiện đăng ký kết hôn. Từ ngày 01/01/2001, pháp luật quy định điều kiện đăng ký kết hôn là bắt buộc nên mọi trường hợp phải tuân theo, nếu nam nữ chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn thì phải biết, buộc phải biết về hậu quả xảy ra. Vì vậy, Tòa án không cần tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng nữa mà chỉ giải quyết hậu quả phát sinh (nuôi con, tài sản) nếu có yêu cầu. Vì vậy, theo chúng tôi, đoạn 2 Điều 87 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không phù hợp với thực tế hiện nay.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (đều được sửa đổi, bổ sung năm 2010) là cơ sở pháp lý để Tòa án giải quyết các vụ việc hôn nhân gia đình. Để sửa đổi các quy định của các luật này một cách toàn diện, cần có quá trình tập hợp, rà soát lại những quy định thiếu thống nhất, chồng chéo nhau. Trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung, thì Tòa án nhân dân dân tối cao có các văn bản hướng dẫn thi hành để cho các địa phương áp dụng thống nhất pháp luật.

TS. Đoàn Đức Lương

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: