Thứ bảy 07/06/2025 00:00
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Cần bổ sung trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại trong hoạt động tống đạt văn bản

Tống đạt là một trong những thủ tục tố tụng quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, nhưng pháp luật chưa có quy định cụ thể để xác định tính hợp lệ của thủ tục này. Việc tống đạt không hợp lệ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình giải quyết vụ án, quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Ngoài trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng theo quy định hiện hành, nghiên cứu cho thấy, cần bổ sung thêm trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại mà hiện đang còn “bỏ ngỏ”.

1. Tính hợp lệ của việc tống đạt văn bản tố tụng dân sự

Về nguyên tắc, văn bản tố tụng phải được giao trực tiếp cho cá nhân tại địa chỉ mà đương sự đã thông báo hợp lệ cho Tòa án hoặc tới địa chỉ mà đương sự đã thỏa thuận và đề nghị Tòa án liên hệ theo địa chỉ đó khoản 1 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng cho đương sự là phương thức mang lại hiệu quả cao nhất, bảo đảm thực hiện kịp thời, chính xác, ít bị đương sự khiếu nại và hủy án vì lý do tống đạt không hợp lệ. Tuy nhiên, nếu người được tống đạt vắng mặt thì người thực hiện việc tống đạt sẽ giải quyết như sau (khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015):

(i) Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt và sau đó quay lại nơi cư trú: người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản và giao cho người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng nơi cư trú với họ hoặc tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc để thực hiện việc ký nhận hoặc điểm chỉ và yêu cầu người này cam kết giao lại tận tay ngay cho người được cấp, tống đạt, thông báo. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.

(ii) Trường hợp người được cấp, tống đạt, thông báo vắng mặt ở nơi cư trú mà không rõ thời điểm trở về hoặc không rõ địa chỉ nơi cư trú mới của họ: người thực hiện việc cấp, tống đạt, thông báo phải lập biên bản về việc không thực hiện được việc cấp, tống đạt, thông báo, có xác nhận của đại diện tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn; đồng thời, thực hiện thủ tục niêm yết công khai văn bản cần tống đạt theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật này. Biên bản phải được lưu trong hồ sơ vụ án.

Thủ tục này là bằng chứng chứng minh người có nghĩa vụ tống đạt đã thực hiện hết trách nhiệm của mình[1], do không thể thực hiện tống đạt trực tiếp, trong khi Tòa án vẫn phải tiếp tục giải quyết vụ việc, tránh làm ảnh hưởng đến các đương sự khác. So với việc tống đạt trực tiếp văn bản tố tụng cho đương sự, thủ tục niêm yết công khai là phương thức có tính hiệu quả không cao, đương sự khó có thể tiếp cận văn bản tố tụng, không bảo đảm tính kịp thời, chính xác của việc tống đạt.

Đối với các loại văn bản tố tụng như giấy triệu tập, giấy mời và các giấy tờ khác của Tòa án, Tòa án có trách nhiệm tống đạt, chuyển giao, thông báo cho đương sự (khoản 1 Điều 22 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015). Tuy nhiên, Tòa án và Văn phòng Thừa phát lại có thể thỏa thuận để tống đạt văn bản của Tòa án trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi đặt trụ sở Văn phòng Thừa phát lại (khoản 1 Điều 33 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08/01/2020 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại[2] (Nghị định số 08/2020/NĐ-CP)). Thủ tục tống đạt của Văn phòng Thừa phát lại là việc thông báo, giao nhận giấy tờ, hồ sơ, tài liệu do Thừa phát lại thực hiện theo quy định của pháp luật (khoản 2 Điều 2 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP).

Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định việc cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì được coi là hợp lệ. Pháp luật hiện hành chỉ quy định khái quát tính hợp lệ của việc tống đạt được xác định dựa trên quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mà không quy định cụ thể cơ sở nào để xác định tính hợp lệ này. Văn phòng Thừa phát lại thực hiện thủ tục tống đạt văn bản của Tòa án theo quy định của pháp luật về tố tụng nên việc tống đạt được thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng (khoản 2 Điều 33 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP) thì được coi là hoàn thành. Như vậy, để xác định tính hợp lệ của việc tống đạt, cần căn cứ vào các quy định cụ thể của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Chương X Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định thủ tục tống đạt gồm các nội dung: nghĩa vụ tống đạt các văn bản tố tụng, người thực hiện việc tống đạt, các phương thức tống đạt, thủ tục tống đạt, thủ tục niêm yết công khai, thủ tục thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng và thông báo kết quả việc tống đạt… Trong đó, tính hợp lệ của việc tống đạt căn cứ vào hai yếu tố cơ bản, đó là: căn cứ thực hiện việc tống đạt và trình tự, thủ tục tống đạt. Nếu việc tống đạt được thực hiện không đúng trình tự, thủ tục, không dựa trên các căn cứ luật định, có sai sót trong quá trình thực hiện sẽ không được coi là hợp lệ. Việc tống đạt không hợp lệ có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình giải quyết vụ án, quyền lợi hợp pháp của các đương sự.

2. Hậu quả pháp lý khi tống đạt văn bản tố tụng dân sự không hợp lệ

Thực tiễn trong một số trường hợp, do không quy định chế độ kiểm tra việc chuyển giao cho người được tống đạt từ người trung gian dễ dẫn đến việc người trung gian không giao hoặc giao không đúng thời hạn cho người được tống đạt dẫn đến việc người được tống đạt không thể biết việc Tòa án triệu tập mình để tham gia tố tụng[3]. Trong một vụ việc, thủ tục tống đạt trực tiếp cho nguyên đơn không hợp lệ dẫn đến hệ quả là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm bị hủy để giải quyết lại vụ án theo trình tự sơ thẩm. Cụ thể như sau:

“Tại văn bản tống đạt trực tiếp không thành của Văn phòng Thừa phát lại quận H ngày 03/11/2017 và ngày 07/9/2017 ghi nhận ông Nguyễn Văn A không có mặt ở nhà, không biết khi nào trở về, không có người nhận thay văn bản theo quy định nên không thể tống đạt và tiến hành niêm yết công khai. Những người tham gia nghe, xác nhận, ký tên gồm có: Thừa phát lại, thư ký thừa phát lại, đại diện Ủy ban nhân dân phường, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường. Tuy nhiên tại các văn bản trên không có sự xác nhận của tổ dân phố hoặc Công an xã, phường, thị trấn.

Tại phiếu yêu cầu xác minh ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân Quận E thì cơ quan quản lý địa phương cho biết ông Nguyễn Văn A vẫn còn ở địa phương (địa chỉ không thay đổi), biên bản tống đạt quyết định đình chỉ do Văn phòng thừa phát lại Hóc Môn vẫn giao trực tiếp cho ông A tại địa chỉ nói trên.

Như vậy, Tòa án nhân dân Quận E tiến hành niêm yết công khai không đúng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông Nguyễn Văn A. Tòa án nhân dân Quận E căn cứ Điều 48, 217, 218, 219 và khoản 2 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự đình chỉ giải quyết vụ án với lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt là chưa đảm bảo căn cứ và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông A, kháng cáo của ông Nguyễn Văn A và kháng nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở để chấp nhận”[4].

(i) Về căn cứ thực hiện tống đạt: có mâu thuẫn giữa kết quả xác minh của Văn phòng Thừa phát lại quận H và Tòa án cấp sơ thẩm. Theo xác minh của Tòa án cấp sơ thẩm, ông A vẫn còn ở địa phương và địa chỉ không thay đổi; theo ghi nhận của Văn phòng Thừa phát lại quận H, ông A không có mặt ở nhà và không biết khi nào trở về. Ngoài ra, biên bản tống đạt quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự do Văn phòng thừa phát lại Hóc Môn tống đạt vẫn giao trực tiếp cho ông A. Qua đó có thể xác định, căn cứ niêm yết công khai của Văn phòng Thừa phát lại quận H là không đúng sự thật khách quan.

(ii) Về trình tự, thủ tục tống đạt: tại các biên bản tống đạt trực tiếp không thành của Thừa phát lại, mặc dù có xác nhận của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, nhưng không có sự xác nhận của tổ dân phố hay Công an xã, phường, thị trấn theo khoản 5 Điều 177 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, thủ tục niêm yết công khai của Văn phòng Thừa phát lại quận H là không đúng trình tự luật định.

Về cả hai phương diện nêu trên, Văn phòng Thừa phát lại quận H đều không tuân thủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc tống đạt này được xem là không hợp lệ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ thủ tục tống đạt giấy triệu tập của Văn phòng Thừa phát lại quận H và sự vắng mặt của nguyên đơn để ban hành quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự đã ảnh hưởng đến quyền của ông A, ông A không có quyền khởi kiện lại theo khoản 3 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Như vậy, thủ tục tống đạt văn bản tố tụng đóng vai trò quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự và có mối quan hệ mật thiết với các thủ tục, giai đoạn tố tụng khác, đơn cử là quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự với lý do nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Thủ tục tống đạt hợp lệ giấy triệu tập đương sự là cơ sở để đương sự có mặt tại Tòa án; việc đương sự không có mặt dù đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai là căn cứ để Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án. Do đó, nếu việc tống đạt giấy triệu tập không hợp lệ thì lần triệu tập này không có giá trị pháp lý, không được tính vào số lần triệu tập. Tòa án căn cứ vào lần triệu tập không hợp lệ mà đình chỉ giải quyết vụ án là chưa phù hợp.

3. Đề xuất bổ sung trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại trong hoạt động tống đạt văn bản

Theo Điều 32 Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, Văn phòng Thừa phát lại phải chịu trách nhiệm trước Tòa án, cơ quan thi hành án dân sự về việc tống đạt thiếu chính xác, không đúng thủ tục, đúng thời hạn của mình; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định. Khi việc tống đạt không hợp lệ, Thừa phát lại chỉ phải chịu trách nhiệm trước Tòa án về thủ tục này, vì Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt dựa trên cơ sở thỏa thuận với Tòa án; còn Tòa án phải chịu trách nhiệm về việc tống đạt không hợp lệ của Văn phòng Thừa phát lại, do đây là trách nhiệm của Tòa án đã được luật định. Trên thực tế, nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã bị hủy theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trong đó có các vi phạm liên quan đến tính hợp lệ của việc tống đạt các văn bản tố tụng[5]. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định ràng buộc cụ thể trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại trong trường hợp việc tống đạt không hợp lệ, làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết vụ việc dân sự.

Trong khi đó, ý nghĩa của việc “khai sinh” các tổ chức Thừa phát lại ở Việt Nam là nhằm xác định lại đúng mức độ, phạm vi can thiệp của Nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp, giảm khối lượng công việc và gánh nặng chi phí của Nhà nước, tinh gọn bộ máy và tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan Nhà nước. Giá trị của việc giao Thừa phát lại thực hiện tống đạt các văn bản tố tụng không chỉ đơn thuần là giảm tải công việc cho ngành Tòa án mà cao hơn, còn có tác động tôn vinh vị trí, vai trò của Tòa án, đồng thời, giúp “tách” cán bộ Tòa án khỏi các bên đương sự, bảo đảm sự khách quan trong giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, giữa vị trí pháp lý, chức năng, vai trò của Thừa phát lại và trách nhiệm pháp lý của tổ chức này còn chưa tương xứng. Pháp luật cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của Thừa phát lại và Văn phòng Thừa phát lại trong trường hợp bản án, quyết định của Tòa án bị hủy do Thừa phát lại thực hiện việc tống đạt không hợp lệ theo quy định của pháp luật tố tụng hoặc nhẹ hơn là “chậm trễ” trong việc tống đạt.

Kết luận:

Mặc dù pháp luật chưa quy định rõ cơ sở pháp lý để đánh giá tính hợp lệ của việc tống đạt văn bản tố tụng dân sự nhưng từ thực tiễn xét xử, nghiên cứu cho thấy, tính hợp lệ của việc tống đạt dựa trên hai yếu tố cơ bản: căn cứ thực hiện việc tống đạt và trình tự, thủ tục tống đạt. Trường hợp tống đạt được thực hiện không đúng trình tự, thủ tục, không dựa trên các căn cứ luật định có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình giải quyết vụ án, dẫn đến bản án, quyết định của Tòa án bị hủy, không có hiệu lực pháp luật. Trong trường hợp này, trách nhiệm trước hết là ở cơ quan, người tiến hành tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, trách nhiệm của Thừa phát lại và Văn phòng Thừa phát lại cũng cần được pháp luật quy định rõ ràng hơn, góp phần củng cố vị trí và giá trị pháp lý của chế định Thừa phát lại trong hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp của Việt Nam./.

Phan Duy Nhật

Học viên Lớp Đào tạo luật sư, Học viện Tư pháp - Cơ sở Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Nguyễn Kim Giang, Cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014, tr. 51.

[2] Trước đây là Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ.

[3] Lê Văn Quang, “Cần hướng dẫn thi hành quy định về cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 5, 2018, tr. 55.

[4] Quyết định giải quyết việc kháng cáo đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự số 287/2018/QĐ-PT ngày 15/3/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

[5] Bộ Tư pháp, “Điểm tin báo chí ngày 16/9 và sáng ngày 17/9/2014 - Thông tin liên quan đến công tác tư pháp”, https://moj.gov.vn/UserControls/News/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/qt/thongtinbaochi/Lists/DiemTinBaoChi&ListId=f40803e2-3d26-43db-82e2-fefffe8e7709&SiteId=5d7ff17f-37bc-40e8-83bb-f20d380bacd0&ItemID=1624&SiteRootID=b71e67e4-9250-47a7-96d6-64e9cb69ccf3, truy cập ngày 22/4/2024.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm