Chủ nhật 15/06/2025 22:59
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh

Chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh

Bài viết này bàn luận về chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, từ đó, đưa ra kiến nghị để hoàn thiện những quy định pháp luật có liên quan.

1. Các chủ thể có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh

1.1. Người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh - Chủ thể trực tiếp nắm giữ thông tin người bệnh

Chủ thể trực tiếp nắm giữ thông tin người bệnh trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh chính là người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh và các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh vì những chủ thể này tiếp cận trực tiếp với người bệnh; thu thập, quản lý và sử dụng thông tin người bệnh. Các chủ thể này thu thập thông tin người bệnh bằng nhiều phương thức khác nhau như: Hỏi trực tiếp người bệnh, quan sát triệu chứng của người bệnh, theo dõi tình trạng bệnh, vô tình nhìn được hoặc nghe được những hình ảnh, thông tin của người bệnh trong suốt quá trình khám bệnh, chữa bệnh. Chính vì vậy, theo quy định pháp luật, những chủ thể này phải có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của người bệnh.

Khoản 2 Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 quy định về nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh quy định: “Tôn trọng quyền của người bệnh; giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 8, khoản 1 Điều 11 và khoản 4 Điều 59 của Luật này”.

Điều 8 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 cũng quy định người bệnh được giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án (khoản 1); thông tin này chỉ được phép công bố khi người bệnh đồng ý hoặc để chia sẻ thông tin, kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán, chăm sóc, điều trị người bệnh giữa những người hành nghề trong nhóm trực tiếp điều trị cho người bệnh hoặc trong trường hợp khác được pháp luật quy định (khoản 2).

Năm 2023, Quốc hội đã ban hành Luật Khám bệnh, chữa bệnh có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2024. Theo các quy định của Luật này thì việc giữ bí mật thông tin của người bệnh được quy định tại khoản 2 Điều 10 - Quyền được tôn trọng danh dự, bảo vệ sức khỏe và tôn trọng bí mật riêng tư trong khám bệnh, chữa bệnh như sau: “Được giữ bí mật thông tin trong hồ sơ bệnh án và thông tin khác về đời tư mà người bệnh đã cung cấp cho người hành nghề trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh, trừ trường hợp người bệnh đồng ý chia sẻ thông tin theo quy định của pháp luật hoặc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 69 của Luật này”.

Ngoài ra, khi quy định về nghĩa vụ đối với nghề nghiệp của người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh, kế thừa những quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 tiếp tục quy định nghĩa vụ này tại khoản 5 Điều 45 như sau: “Giữ bí mật tình trạng bệnh của người bệnh, những thông tin mà người bệnh đã cung cấp và hồ sơ bệnh án, trừ trường hợp người bệnh đồng ý chia sẻ thông tin và trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 69 của Luật này”.

Bên cạnh đó, Quyết định số 4054/QĐ-BYT ngày 22/9/2020 của Bộ Y tế ban hành tạm thời hướng dẫn và quy định tổ chức hội chẩn, tư vấn khám, chữa bệnh từ xa (Quyết định số 4054/QĐ-BYT) có quy định tại khoản 2 Điều 1 về Hướng dẫn về bảo mật thông tin trong hoạt động tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa. Tại Hướng dẫn này, nghĩa vụ của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải bảo đảm bí mật thông tin của người bệnh được quy định rõ dưới dạng các biện pháp để hạn chế chia sẻ các thông tin cá nhân của người bệnh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh từ xa cũng như trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia hội chẩn, khám bệnh, chữa bệnh từ xa (mục 4 và 5 của Hướng dẫn về bảo mật thông tin trong hoạt động tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa) cụ thể:

Thứ nhất, các biện pháp để hạn chế chia sẻ các thông tin cá nhân của người bệnh trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh từ xa:

“- Không chia sẻ thông tin cá nhân của người bệnh như: Họ và tên đầy đủ, địa chỉ, hình ảnh mặt, cơ thể bệnh nhân hoặc các thông tin có thể định danh người bệnh bằng bất cứ hình thức nào (thông qua hình ảnh, văn bản, ghi âm…).

- Trường hợp buổi hội chẩn cần sự hiện diện của bệnh nhân: Phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật để che, hoặc làm mờ hình ảnh mặt bệnh nhân.

- Không thực hiện tường thuật trực tiếp - “Live stream” các buổi hội chẩn, tư vấn khám chữa bệnh từ xa qua các mạng xã hội hoặc các hình thức khác mà có thể làm lộ thông tin cá nhân, hình ảnh mặt người bệnh và tình hình sức khỏe của người bệnh và những người tham gia buổi hội chẩn, hoặc tư vấn khám, chữa bệnh từ xa”.

Thứ hai, về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia hội chẩn, khám bệnh, chữa bệnh từ xa, Hướng dẫn yêu cầu cán bộ y tế tham gia hội chẩn, tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa “có trách nhiệm giữ bí mật và không chia sẻ thông tin người bệnh, người tham gia hội chẩn trong quá trình thực hiện hoạt động hội chẩn, tư vấn khám, chữa bệnh từ xa”.

Một số văn bản pháp luật và văn bản hành chính khác như: Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989 (khoản 1 Điều 25); Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 (Điều 33); Luật Phòng, chống nhiễm vi-rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi năm 2020) (Điều 30); Công văn số 5877/BYT-BH ngày 22/7/2021 của Bộ Y tế về kiểm tra, rà soát về an toàn, bảo mật thông tin dữ liệu của người bệnh trong khám, chữa bệnh có sử dụng bảo hiểm y tế trên toàn quốc là những cơ sở quan trọng nhằm khẳng định nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của người hành nghề khám, chữa bệnh và cơ sở khám, chữa bệnh trong hoạt động khám, chữa bệnh tại Việt Nam.

1.2. Người bệnh - Chủ sở hữu đối với thông tin người bệnh

Trước tiên phải khẳng định rằng: Người bệnh là chủ sở hữu thông tin của chính mình, vì vậy, họ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt những thông tin của mình. Tuy nhiên, quyền của người bệnh đối với thông tin cũng gắn liền với nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của chính người bệnh đó trong một số trường hợp cụ thể. Điều này có nghĩa là, nếu người bệnh không tự mình bảo đảm bí mật thông tin của chính mình trong một số trường hợp thì những chủ thể khác sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận những thông tin này một cách dễ dàng, dẫn đến tình trạng mua bán, tiết lộ thông tin người bệnh sẽ ngày càng phức tạp. Giả sử, ông A bị nhiễm HIV đang trong quá trình thử nghiệm một loại thuốc điều trị mới (chưa được công bố) và bản thân ông nắm được một số thông tin trong hồ sơ bệnh án của mình. Tuy nhiên, ông này lại chia sẻ, công bố thông tin về tình trạng bệnh cũng như loại thuốc mình đang điều trị với “người quen” hoặc các chủ thể khác mà ông ấy cho rằng đáng tin tưởng. Trong trường hợp này, thông tin về tình trạng bệnh của ông A và loại thuốc điều trị mới (chưa được công bố) có nguy cơ bị phát tán, chia sẻ và rò rỉ một cách dễ dàng vì ông này đã chủ động chia sẻ thông tin của bản thân đến các chủ thể khác. Ngược lại, nếu ông này ý thức về nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin về tình trạng bệnh của mình, cũng như các thông tin liên quan đến hồ sơ bệnh án, loại thuốc điều trị thì thông tin này sẽ không có cơ hội bị tiết lộ và rò rỉ. Vì thế, nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chính người bệnh trong một số trường hợp cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trên thực tế, nhất là trong thời đại công nghệ số phát triển nhanh, mạnh như hiện nay.

Chúng ta cũng phải thừa nhận rằng nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chính người bệnh không phải là nghĩa vụ tuyệt đối và xuyên suốt trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm và mọi trường hợp. Trái lại, người bệnh hoàn toàn có quyền cung cấp, tiết lộ thông tin của chính mình khi họ nhận thức được rằng việc chia sẻ thông tin trong những trường hợp đó là cần thiết và không nguy hại cho bản thân mình, cũng như không làm “rò rỉ” những thông tin liên quan đến chủ thể khác. Có thể khẳng định rằng, đây là điểm khác biệt đáng chú ý về nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của người bệnh so với nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của các chủ thể khác.

Hiện nay, trong các văn bản pháp luật hiện hành thì nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chính người bệnh chỉ được quy định tại Quyết định số 4054/QĐ-BYT (điểm c mục 5 của Hướng dẫn về bảo mật thông tin trong hoạt động tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa), cụ thể như sau: “Người bệnh hoặc người đại diện hợp pháp cho người bệnh đồng ý tham gia hội chẩn, tư vấn khám chữa bệnh từ xa, không tiết lộ danh tính và các thông tin cá nhân khác trong quá trình hội chẩn, tư vấn khám, chữa bệnh từ xa”.

1.3. Chủ thể thứ ba - Các chủ thể có liên quan

Chủ thể thứ ba là những chủ thể có được thông tin người bệnh thông qua sự ủy quyền của người bệnh, hoạt động nghề nghiệp, hoạt động học tập, nghiên cứu khoa học hoặc nhiệm vụ công vụ. Những chủ thể này không phải là chủ sở hữu những thông tin người bệnh và cũng không phải là chủ thể trực tiếp nắm giữ thông tin người bệnh. Vì vậy, để có thể thu thập, sử dụng thông tin của người bệnh, những chủ thể này sẽ phải thực hiện hành vi “đề nghị” cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người bệnh cung cấp thông tin người bệnh cho mình. Việc tiết lộ và làm rò rỉ thông tin người bệnh sẽ không nguy hại đến bản thân những chủ thể này, do đó, họ sẽ có xu hướng tiết lộ và “mua bán thông tin người bệnh” để trục lợi hoặc thỏa mãn các nhu cầu cá nhân khác. Vì vậy, việc pháp luật cần có quy định rõ về nghĩa vụ của các chủ thể này trong việc bảo đảm bí mật thông tin người bệnh là đặc biệt cần thiết và quan trọng. Đây chính là cơ sở pháp lý để ngăn chặn những hành vi tiết lộ thông tin người bệnh và gây thiệt hại cho người bệnh.

Các chủ thể thứ ba ở đây bao gồm: (i) Học sinh, sinh viên, học viên, nghiên cứu viên của các cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo; (ii) Người hành nghề khám, chữa bệnh của cơ sở khám, chữa bệnh khác; (iii) Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về y tế, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, thanh tra chuyên ngành y tế, tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, luật sư của người bệnh; (iv) Người hành nghề trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhưng không trực tiếp tham gia khám, chữa bệnh cho người bệnh; (v) Đại diện cơ quan bảo hiểm xã hội, cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước; (vi) Người đại diện của người bệnh…

Điều 69 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 quy định những chủ thể nêu trên muốn khai thác hồ sơ bệnh án của người bệnh (tiếp cận, đọc, nghiên cứu, đề nghị cấp bản sao…) có nghĩa vụ giữ bí mật khi sử dụng thông tin trong hồ sơ bệnh án và chỉ được sử dụng đúng mục đích như đã đề nghị với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

Ngoài ra, trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh từ xa, Quyết định số 4054/QĐ-BYT (điểm d mục 5 của Hướng dẫn về bảo mật thông tin trong hoạt động tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa) quy định một loại chủ thể thứ ba là: Tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp có tham gia quản lý, cung cấp, vận hành, khai thác, ứng dụng Công nghệ thông tin trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh từ xa. Chủ thể này có nghĩa vụ:

“- Phối hợp chặt chẽ với các cơ sở y tế thực hiện tư vấn khám, chữa bệnh từ xa trong việc bảo mật thông tin cá nhân và thông tin sức khỏe của người bệnh tham gia tư vấn khám, chữa bệnh từ xa theo yêu cầu của Hướng dẫn này.

- Chịu trách nhiệm trước Pháp luật trong trường hợp tự ý tiết lộ thông tin cá nhân và thông tin sức khỏe của người bệnh tham gia tư vấn khám, chữa bệnh từ xa.

- Không được sử dụng hình ảnh, dữ liệu lưu trữ quá trình tư vấn khám, chữa bệnh từ xa với mục đích thương mại hoặc các mục đích khác dưới bất kỳ hình thức nào”.

2. Một số đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật

Thứ nhất, về nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của người hành nghề khám, chữa bệnh và của cơ sở khám, chữa bệnh:

Nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chủ thể này được ghi nhận rất rõ tại khoản 2 Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 dưới dạng là một trong những nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh. Tuy nhiên, Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 đã bỏ đi nguyên tắc này. Theo tác giả, đây là một “bước lùi” của Luật bởi chúng ta không thể phủ định tầm quan trọng của nguyên tắc này trong quá trình hành nghề khám, chữa bệnh, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay khi Nhà nước ta đang đề cao vấn đề bảo đảm an toàn thông tin cá nhân.

Vì vậy, tác giả kiến nghị cần bổ sung lại nguyên tắc “Tôn trọng quyền của người bệnh; giữ bí mật thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong hồ sơ bệnh án” vào Điều 3 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023.

Thứ hai, về nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chính người bệnh trong một số trường hợp cụ thể:

Có thể nhận thấy, người bệnh là chủ sở hữu đối với thông tin của họ nên họ hoàn toàn có quyền đối với thông tin của bản thân mình, tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp người bệnh đều có quyền “tiết lộ” thông tin của mình cho người khác mà họ cũng cần phải có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của chính mình.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ những trường hợp nào người bệnh cần phải có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của chính bản thân mình ngoài trường hợp quy định tại điểm c mục 5 của Hướng dẫn về bảo mật thông tin trong hoạt động tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa (tại Quyết định số 4054/QĐ-BYT).

Thực trạng pháp luật như vậy sẽ làm phát sinh một số bất cập trên thực tế, đó là: (i) Vậy người bệnh có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin trước các chủ thể nào và trong trường hợp nào?; (ii) Có phải người bệnh chỉ có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của mình trong quá trình hội chẩn, tư vấn khám bệnh, chữa bệnh từ xa?; (iii) Trong các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trực tiếp thì người bệnh có cần bảo đảm bí mật thông tin của mình hay không (vì rõ ràng rằng thông tin người bệnh không chỉ hình thành trong hoạt động khám bệnh, chữa bệnh từ xa mà còn phát sinh trong các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh trực tiếp, truyền thống)?

Do đó, tác giả đề xuất trong Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 và các văn bản hướng dẫn thi hành cần có các quy định nêu rõ: Những trường hợp nào người bệnh có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin của mình trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh; người bệnh cần bảo đảm bí mật thông tin của mình trước những chủ thể nào?

Thứ ba, nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh của chủ thể thứ ba.

Hiện nay, chủ thể thứ ba có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh được quy định tại khoản 3 và 4 Điều 69 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023 và điểm d mục 5 - trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân tham gia hội chuẩn, khám bệnh, chữa bệnh từ xa tại Quyết định số 4054/QĐ-BYT. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để chủ thể thứ ba thực hiện nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh. Tuy nhiên, còn rất nhiều chủ thể thứ ba có nghĩa vụ bảo đảm bí mật thông tin người bệnh vẫn chưa được quy định tại khoản 3 và 4 Điều 69 Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2023. Ví dụ như: Cơ quan thuế, cơ quan kinh doanh bảo hiểm nhân thọ… Vì vậy, để tránh bỏ sót các chủ thể, tác giả đề xuất bổ sung vào điểm a các khoản 4 Điều 69 như sau: “a) Đại diện cơ quan quản lý nhà nước về y tế, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án, thanh tra chuyên ngành y tế, tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, luật sư của người bệnh và các chủ thể khác theo luật định được tiếp cận, cung cấp hồ sơ bệnh án để thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật có liên quan”.

Nguyễn Vương Quốc

Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm