Thứ sáu 06/06/2025 01:20
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu - Quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng

Bài viết phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2022 và đề xuất hoàn thiện pháp luật về nội dung này.

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019 và 2022 (hợp nhất trong Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 của Văn phòng Quốc hội). Luật này quy định quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu được xác lập thông qua thủ tục đăng ký, theo đó, quyền này “được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật này hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”[1]. Nghĩa là, một nhãn hiệu chỉ được bảo hộ nếu đã thực hiện thủ tục đăng ký thành công tại Cục Sở hữu trí tuệ và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Việc đăng ký nhãn hiệu theo nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first- to- file)[2]. Tuy nhiên, điều này có thể dẫn tới nguy cơ: (i) Pháp luật bảo hộ nhãn hiệu của các nhà “đầu cơ nhãn hiệu” thay vì việc bảo hộ nhãn hiệu của chủ thể quyền[3]; (ii) Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn để gắn lên sản phẩm nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng… Để hạn chế tình trạng này, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực”[4] và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ năm 2022 (Luật năm 2022) đã quy định cụ thể về hành vi “đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu”.

1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký nhãn hiệu không trung thực

Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 có đề cập đến trường hợp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu bị hủy do sự không trung thực của người nộp đơn tại khoản 3 Điều 96[5] nhưng không có quy định rõ khái niệm và các tiêu chí xác định thế nào là “đăng ký nhãn hiệu không trung thực”. Có thể hiểu, đăng ký nhãn hiệu không trung thực là hành vi thực hiện việc đăng ký nhãn hiệu với mục đích không phù hợp, có động cơ trục lợi hoặc gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng.

Trên thực tế, ngày 29/6/2018, Cục Sở hữu trí tuệ ra Quyết định số 2090/QĐ- SHTT hủy bỏ hiệu lực giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu Natural Lady do Công ty H (nhà nhập khẩu, đại lý phân phối sản phẩm Natural Lady của Han Fang tại Việt Nam) nộp đơn năm 2017 và đã được cấp văn bằng bảo hộ là chủ sở hữu của nhãn hiệu Natural Lady tại Việt Nam, vì có hành vi không trung thực[6], gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về xuất xứ hàng hóa và ảnh hưởng tới uy tín của Công ty Han Fang.

Trong một giả thuyết khác đặt ra, nếu trường hợp Công ty H không kinh doanh mua bán, phân phối sản phẩm Natural Lady do Công ty Han Fang sản xuất thì không thể căn cứ vào Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 để hủy bỏ văn bằng bảo hộ nhãn hiệu nêu trên. Vì không có quy định cụ thể về hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” nên tình trạng các cá nhân đầu cơ nhãn hiệu như đầu cơ tên miền bằng cách đăng ký số lượng lớn nhãn hiệu đối với các nhãn hiệu nổi tiếng lâu đời của các chủ nhãn hiệu nước ngoài ở nhiều nước trên thế giới[7] (chủ sở hữu đích thực chưa nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tại Việt Nam) có thể xảy ra.

Như vậy, quy định về “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” trong Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 không bao trùm hết các trường hợp đầu cơ nhãn hiệu, cạnh tranh không lành mạnh, không trung thực như: Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nhưng không phải là người thương mại sản phẩm đó mà chỉ có mục đích bán lại; người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu tương tự gây nhầm lẫn để gắn lên sản phẩm nhằm gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng…, do đó, không đủ cơ sở pháp lý để Cục Sở hữu trí tuệ từ chối cấp đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu. Vì vậy, quy định hành vi “đăng ký nhãn hiệu có dụng ý xấu” trong Luật năm 2022 được kỳ vọng sẽ giải quyết được những hạn chế trong quy định về hành vi “đăng ký nhãn hiệu không trung thực” trước đây.

2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu

Luật năm 2022 lần đầu tiên đã bổ sung quy định về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại điểm a khoản 1 Điều 96[8] và điểm b khoản 1 Điều 117[9]. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền từ chối cấp văn bằng bảo hộ hoặc hủy bỏ toàn bộ hiệu lực của văn bằng bảo hộ nhãn hiệu đối với những đơn đăng ký có dụng ý xấu hoặc động cơ không trung thực. Đây cũng là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ sở hữu nhãn hiệu thực sự. Các chủ sở hữu nhãn hiệu có căn cứ để phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ đối với nhãn hiệu được đăng ký với dụng ý xấu, đòi lại quyền sở hữu nhãn hiệu một cách hợp pháp, hỗ trợ chủ sở hữu chính đáng tránh bị thiệt hại, phải mua lại nhãn hiệu của chính mình với các chi phí không đáng có, thậm chí phải từ bỏ việc phát triển kinh doanh tại thị trường Việt Nam. Đồng thời, quy định này cũng khắc phục được việc lạm dụng nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (first- to- file) cho phép cấp văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn sớm nhất, kể cả khi người đó có dụng ý xấu dẫn đến nạn đầu cơ nhãn hiệu hoặc chiếm đoạt nhãn hiệu.

Mặc dù chưa có quy định cụ thể về khái niệm hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu nhưng Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN ngày 30/11/2023 của Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và biện pháp thi hành Nghị định số 65/2023/NĐ-CP ngày 23/8/2023 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ liên quan đến thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và bảo đảm thông tin sở hữu công nghiệp (Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN) đã đưa ra những tiêu chí để xác định hành đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu tại khoản 1 Điều 34. Theo đó, đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu là hành vi thực hiện việc đăng ký để thành chủ sở hữu nhãn hiệu, trong khi nhãn hiệu này đang được người khác sử dụng cho hàng hóa, dịch vụ của họ và người đang sử dụng nhãn hiệu chưa kịp thời thực hiện thủ tục đăng ký bảo hộ nhãn hiệu. Việc xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu dựa vào các tiêu chí:

Thứ nhất, về ý thức chủ quan của người nộp đơn, tại thời điểm nộp đơn, người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với nhãn hiệu đang được chủ thể khác sử dụng. Thực tiễn đặt ra câu hỏi về việc cần minh chứng như thế nào để xác định người nộp đơn biết hoặc có cơ sở để biết? Pháp luật dân sự, thương mại không có giải thích cụ thể thế nào là người biết hoặc có cơ sở để biết.

Thực tiễn hoạt động kinh doanh thương mại cho thấy, người nộp đơn được coi là biết hoặc có cơ sở để biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu khác nếu:

- Người đó trực tiếp được biết nhãn hiệu mình đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu khác. Trường hợp này thường rơi vào tình huống, người nộp đơn đã có mối quan hệ (đại lý phân phối, hợp tác kinh doanh, đại diện nhập khẩu, xuất khẩu, bên được thuê thiết kế hoặc thuê gia công, người lao động…) với chủ sở hữu thực sự của nhãn hiệu trước thời điểm nộp đơn.

- Bằng nhận thức thông thường, người nộp đơn có thể biết được nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc là nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự.

Thứ hai, về nhãn hiệu đăng ký trùng hoặc tương tự đến mức khó phân biệt với một nhãn hiệu đang được sử dụng rộng rãi tại Việt Nam hoặc là nhãn hiệu nổi tiếng tại các nước khác cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự. Theo Luật năm 2022, “nhãn hiệu nổi tiếng là nhãn hiệu được bộ phận công chúng có liên quan biết đến rộng rãi trên lãnh thổ Việt Nam”[10], tuy nhiên, chưa có quy định cụ thể về một nhãn hiệu được sử dụng và thừa nhận rộng rãi, cũng như tiêu chí/điều kiện để một nhãn hiệu được coi là đã sử dụng và thừa nhận rộng rãi.

Trên thực tế, một nhãn hiệu được coi là nhãn hiệu sử dụng và thừa nhận rộng rãi, cần phải có các tiêu chí về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa như: Tình trạng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu; thời gian sử dụng liên tục nhãn hiệu tại Việt Nam; số lượng khách hàng đã biết đến nhãn hiệu; số lượng các quốc gia đã bảo hộ nhãn hiệu; doanh thu/lợi nhuận có được từ việc sản xuất, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ mang nhãn hiệu; chi phí quảng cáo cho sản phẩm/dịch vụ mang nhãn hiệu; số lượng các quốc gia đã thừa nhận nhãn hiệu là nhãn hiệu nổi tiếng…

Thứ ba, về mục đích của việc đăng ký nhãn hiệu, mục đích là yếu tố chính thể hiện dụng ý xấu khi đăng ký nhãn hiệu của người nộp đơn. Người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu nhằm một trong các mục đích sau: (i) Lợi dụng danh tiếng, uy tín của nhãn hiệu đó để thu lợi; (ii) Nhằm mục tiêu bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu này (người đang sử dụng các nhãn hiệu này); (iii) Nhằm mục tiêu ngăn chặn khả năng gia nhập thị trường của người có các nhãn hiệu này để hạn chế cạnh tranh; (iv) Các hành vi trái với tập quán thương mại lành mạnh khác.

Mặc dù, quy định pháp luật bảo vệ cho chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, tuy nhiên, việc cung cấp các bằng chứng để chứng minh vụ việc là rất khó khăn. Ví dụ, để chứng minh mục đích “bán lại, cấp phép hoặc chuyển giao quyền đăng ký cho người có các nhãn hiệu này”, chủ sở hữu đích thực phải chứng minh được nguồn gốc, quá trình sử dụng nhãn hiệu của mình và chứng minh được chủ thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thực tế không hề sử dụng và cũng không hề có ý định sử dụng nhãn hiệu. Nếu trong trường hợp chủ thể đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu đăng ký có thực tế sử dụng nhãn hiệu họ đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu còn khó khăn hơn rất nhiều; thậm chí là không thể đăng ký được nhãn hiệu mà đúng ra thuộc quyền sở hữu của mình trước (thực tế đã có rất nhiều trường hợp chủ sở hữu có nhãn hiệu sử dụng trước buộc phải thay đổi nhãn hiệu mới vì việc sử dụng này hoàn toàn có rủi ro bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu do chủ sở hữu sử dụng sau nhưng lại đăng ký bảo hộ trước). Ngoài ra, việc chứng minh chủ sở hữu nhãn hiệu đăng ký một nhãn hiệu gần giống hoặc giống hệt nhãn hiệu khác (tức là nhãn hiệu đó không được sử dụng nhưng vẫn cản trở việc sử dụng và/hoặc việc đăng ký nhãn hiệu của bên thứ ba) chỉ là đăng ký nhãn hiệu dự phòng hay là hành vi đăng ký với dụng ý xấu là vấn đề không dễ dàng.

Ngoài việc phải cung cấp minh chứng phục vụ việc giải quyết yêu cầu trên thực tế, chủ sở hữu đích thực của nhãn hiệu còn phải đối mặt với tình trạng thời gian thủ tục hủy bỏ hiệu lực và khởi kiện (nếu có) là rất dài, có thể tính bằng nhiều năm[11]. Thời gian giải quyết vụ việc kéo dài như vậy có thể khiến cho bên đề nghị hủy phải cân nhắc việc thương lượng, nhận chuyển nhượng nhãn hiệu hay đổi sang làm nhãn hiệu mới.

3. Hoàn thiện quy định về đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu

Thứ nhất, nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp tại Cộng hòa Pháp cho thấy, mặc dù trong Bộ luật Sở hữu trí tuệ[12] không có khái niệm hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu nhưng trong phán quyết của Tòa phá án số 18-19.774 về vụ New York Fair & Lovely[13] có lập luận rằng: Bất kỳ nhãn hiệu nào được đăng ký nhằm mục đích gian lận quyền của người khác nhất thiết phải được hiểu là đăng ký với dụng ý xấu. Tòa công lý châu Âu (CJCE) đã chỉ ra một cách đáng chú ý rằng, dụng ý xấu được biểu hiện “nếu tồn tại những chỉ dẫn khách quan phù hợp và nhất quán có xu hướng chứng minh rằng vào ngày nộp đơn đăng ký nhãn hiệu đó, người nộp đơn đã có mục đích hoặc là làm tổn hại đến lợi ích của bên thứ ba theo cách không phù hợp với tập quán trung thực hoặc để có được, thậm chí không nhắm tới một bên thứ ba cụ thể, việc sử dụng độc quyền cho những mục đích khác ngoài những vấn đề liên quan đến chức năng của một nhãn hiệu”[14]. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất bổ sung khái niệm “hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu là hành vi của người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu trái với tập quán trung thực làm tổn hại đến lợi ích của bên thứ ba”.

Thứ hai, pháp luật sở hữu trí tuệ nên bổ sung những tiêu chí mang tính định lượng khi xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu. Các tiêu chí xác định hành vi đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu quy định tại Điều 34 Thông tư số 23/2023/TT-BKHCN mới chỉ dừng lại ở các tiêu chí định tính, chưa có những thông số nhất định để đo lường. Tác giả đề xuất bổ sung quy định: Chỉ được nộp tối đa đơn đăng ký 10 nhãn hiệu nếu trường hợp đơn đăng ký đối với hàng hóa, dịch vụ mà không trực tiếp khai thác, sử dụng hàng hóa đó.

Ngoài ra, mặc dù có thêm cơ sở pháp lý để bảo hộ quyền của chủ sở hữu đích thực đối với nhãn hiệu nhưng việc chủ sở hữu đích thực phản đối cấp văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn đăng ký nhãn hiệu hoặc đề nghị hủy bỏ hiệu lực của văn bằng bảo hộ đã được cấp sẽ mất rất nhiều thời gian, công sức. Do đó, các chủ thể kinh doanh cần chú trọng đăng ký bảo hộ nhãn hiệu ngay từ sớm để hạn chế những tranh chấp không đáng có./.

TS. Nguyễn Phương Thảo

Khoa Kinh tế và Kinh doanh, Trường Đại học Phenikaa

[1]. Điểm a khoản 3 Điều 6 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ.

[2]. Khoản 2 Điều 90 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau hoặc trường hợp có nhiều đơn của cùng một người đăng ký các nhãn hiệu trùng dùng do các sản phẩm, dịch vụ trùng nhau thì văn bằng bảo hộ chỉ được cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ”.

[3]. Người đầu cơ nhãn hiệu sẽ tìm kiếm các nhãn hiệu tiềm năng nhưng chưa được xác lập quyền hoặc chỉ mới đăng ký ở một số quốc gia nhất định, để tranh thủ nộp đơn đăng ký tại nơi mà các nhãn hiệu chưa xác lập quyền để có lợi thế nộp đơn trước hoặc đã được cấp văn bằng bảo hộ. Xem: Nguyễn Thái Hải Lâm (2023), Đăng ký nhãn hiệu với dụng ý xấu: tiên hạ thủ vi cường, Tạp chí Kinh tế Sài Gòn online, nguồn: https://thesaigontimes.vn/dang-ky-nhan-hieu-voi-dung-y-xau-tien-ha-thu-vi-cuong, truy cập ngày 15/5/2024.

[4]. Xem: Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, được sửa đổi, bổ sung vào các năm 2009, 2019.

[5]. Khoản 3 Điều 96 Luật sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định: “Thời hiệu thực hiện quyền yêu cầu huỷ bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ là suốt thời hạn bảo hộ; đối với nhãn hiệu thì thời hiệu này là năm năm kể từ ngày cấp văn bằng bảo hộ, trừ trường hợp văn bằng bảo hộ được cấp do sự không trung thực của người nộp đơn”.

[6]. Cơ sở của Quyết định là căn cứ khoản 2 Điều 87 và khoản 3 Điều 97 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005.

[7]. 2022, Quy định mới về nhãn hiệu và chiến lược bảo vệ thương hiệu, https://khcncongthuong.vn/tin-tuc/t17428/quy-dinh-moi-ve-nhan-hieu-va-chien-luoc-bao-ve-thuong-hieu.html.

[8]. Điều 96. Hủy bỏ hiệu lực văn bằng bảo hộ.

[9]. Điều 117. Từ chối cấp văn bằng bảo hộ.

[10]. Xem khoản 20 Điều 4 Văn bản hợp nhất số 11/VBHN-VPQH ngày 08/7/2022 về Luật Sở hữu trí tuệ.

[11]. Theo Quyết định số 2060/QĐ-BKHCN ngày 13/9/2023 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ công bố thủ tục hành chính mới ban hành, thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ thuộc phạm vi chức năng quản lý của Bộ Khoa học và Công nghệ, thông thường, một vụ hủy bỏ hiệu lực sẽ mất khoảng 6-10 tháng hoặc có thể kéo dài đến một năm/vài năm tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.

[12]. Code de la propriété intellectuelle (Bộ luật Sở hữu trí tuệ) ngày 13/4/1995, được sửa đổi, bổ sung lần gần nhất ngày 01/01/2024, truy cập ngày 25/5/2024: https://www.legifrance.gouv.fr/codes.

[13]. Cass.com.,17/3/2021, no 18-19.774 “New York Fair & Lovely”.

[14]. Phán quyết của Tòa CJCE ngày 29/1/2020 trong vụ án C-371/18, https://curia.europa.eu/juris/document/document.jsf?docid=222824&doclang=fr, truy cập ngày 27/5/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 406), tháng 6/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật

Đây là một trong những nội dung thảo luận được đưa ra tại phiên họp Hội đồng thẩm định hồ sơ dự án Nghị quyết của Quốc hội về đào tạo các ngành, nghề chuyên môn đặc thù trong lĩnh vực nghệ thuật do Thứ trưởng Bộ Tư pháp Đặng Hoàng Oanh chủ trì ngày 11/4/2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm