Thứ tư 19/11/2025 05:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Gian nan trả lại tài sản có giá trị nhỏ trong thi hành án dân sự

Trả lại tiền, tài sản thi hành án là một trong những khoản thi hành án chủ động mà các cơ quan thi hành án dân sự (THADS) thường xuyên phải tổ chức thi hành. Trình tự, thủ tục hoàn trả số tiền, tài sản có giá trị nhỏ hay lớn cho đương sự đều phải thực hiện theo trình tự, thủ tục chung do pháp luật quy định. Trên thực tế, rất nhiều trường hợp việc hoàn trả đối với những số tiền tạm ứng án phí hoặc tài sản có giá trị nhỏ là không dễ dàng.

Thủ tục trả lại tiền, tài sản được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014 (Luật Thi hành án dân sự); Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).

1. Trả lại tiền tạm ứng án phí có giá trị nhỏ

Hoàn trả tiền tạm ứng án phí là một trong những loại việc chủ động thi hành án[1], thường gặp trong các bản án, quyết định về dân sự, hôn nhân và gia đình. Trong thực tế, việc hoàn trả đối với số tiền tạm ứng án phí có giá trị nhỏ thường gặp một số khó khăn, cụ thể như:

Một là, đương sự không đến nhận lại tiền tạm ứng án phí được hoàn trả

Theo Danh mục án phí, lệ phí tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án thì mức án phí áp dụng đối với việc tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động không có giá ngạch là 300.000 đồng. Do đó, đối với các trường hợp thuận tình ly hôn hoặc đình chỉ việc dân sự thì mức án phí được tuyên trả lại đương sự thường chỉ từ 150.000 đồng đến 300.000 đồng. Cá biệt, có những vụ án hình sự, đương sự được trả lại số tiền chỉ vài chục nghìn đồng. Vấn đề vướng mắc ở đây là, vì số tiền tạm ứng án phí được trả lại có giá trị quá nhỏ dẫn đến nhiều đương sự không đến nhận lại tiền do “ngại” phải mất thời gian, công sức. Một số trường hợp, sau khi ly hôn, đương sự chuyển địa chỉ đi nơi khác hoặc không thể xác định được địa chỉ của đương sự... dẫn đến tình trạng cơ quan THADS báo gọi rất nhiều lần nhưng đương sự không đến nhận tiền. Việc này gây ra không ít khó khăn cho chấp hành viên và dẫn đến tồn đọng hồ sơ thi hành án.

Hai là, thủ tục xử lý đối với khoản tiền trả lại tạm ứng án phí còn nhiều bất cập

Thủ tục trả lại tiền tạm ứng án phí được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự; Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp đương sự không đến nhận khoản tiền tạm ứng án phí được trả lại, cơ quan THADS phải thực hiện xử lý khoản tiền này theo đầy đủ trình tự, thủ tục được quy định tại các điều khoản nêu trên như: Thông báo cho đương sự, nếu hết thời hạn mà đương sự không đến nhận thì gửi tiền qua bưu điện (trong trường hợp đương sự ở xa và rõ địa chỉ, khoản tiền có giá trị nhỏ hơn một tháng lương cơ sở), gửi tiết kiệm vào ngân hàng và thông báo cho đương sự (nếu đương sự không có địa chỉ hoặc bưu điện trả lại do không có người nhận), hết 05 năm thì sung quỹ nhà nước. Như vậy, để theo dõi, xử lý khoản tiền mà đương sự không đến nhận phải mất 05 năm, đây là thời hạn quá dài. Điều này dẫn đến việc thi hành án bị tồn đọng, gây lãng phí thời gian và nhân lực của các cơ quan THADS và của Nhà nước.

Để giải quyết dứt điểm các vụ án hoàn trả tiền tạm ứng án phí, tiết kiệm chi phí và nhân lực cho hoạt động THADS, cần xem xét quy định thống nhất một phương án xử lý chung đối với khoản tiền tạm ứng án phí có giá trị nhỏ (dưới 500.000 đồng) đó là Tòa án có thể tuyên thu toàn bộ số tiền tạm ứng án phí để sung công quỹ nhà nước, góp phần giảm tải số lượng việc thi hành án cho các cơ quan THADS. Về thời gian làm thủ tục sung công quỹ nhà nước thì cần xem xét rút ngắn từ 05 năm xuống còn 01 năm để tạo điều kiện cho cơ quan THADS có thể nhanh chóng kết thúc hồ sơ thi hành án.

2. Trả lại tài sản có giá trị nhỏ

Bên cạnh việc trả lại tiền tạm ứng án phí, các việc thi hành án dân sự trả lại tài sản có giá trị nhỏ cũng rất nan giải. Để thực hiện việc trả lại các tài sản có giá trị quá nhỏ (chẳng hạn như vài con ốc vít, tô vít, con dao, chiếc chìa khóa…), chấp hành viên cũng phải thực hiện đầy đủ các tác nghiệp như các vụ việc trả tài sản có giá trị lớn khác. Bên cạnh các thủ tục thông báo quyết định thi hành án, thông báo về việc nhận tiền, tài sản theo quy định, cơ quan THADS còn phải thực hiện rất nhiều các thủ tục hành chính khác để giải quyết vụ việc, chẳng hạn như: Chấp hành viên làm thủ tục đề nghị xuất kho tài sản, tang vật, trình thủ trưởng ký phê duyệt; kế toán làm thủ tục xuất kho tài sản, tang vật (lập lệnh xuất kho, phiếu xuất kho); chấp hành viên lập biên bản trả lại tài sản, sau đó phối hợp cùng kế toán, thủ kho giao trả tài sản cho người được nhận tài sản theo quyết định thi hành án. Tổng thời gian thực hiện việc tống đạt quyết định thi hành án và thực hiện thủ tục trả tài sản mất khoảng 02 ngày làm việc (tùy theo các tình huống khác nhau có thể phát sinh mà số lượng công việc thực hiện có thể tăng lên và thời gian thực hiện có thể dài hơn).

Có những trường hợp, theo địa chỉ tại bản án, người được nhận tài sản (có giá trị rất nhỏ) cư trú ở cách xa cơ quan THADS, chấp hành viên đã gửi quyết định thi hành án và thông báo về việc nhận tiền, tài sản theo đường bưu điện, nhưng do người này đã chuyển địa chỉ, chấp hành viên không thể liên lạc được để hướng dẫn các thủ tục nhận lại tài sản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 126 Luật Thi hành án dân sự, đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng thì thủ trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định tiêu hủy và tổ chức tiêu hủy tài sản theo quy định tại Điều 125 của Luật này. Tổng thời gian thực hiện việc tống đạt văn bản và trả tài sản mất khoảng 02 ngày làm việc; mất một khoản chi phí cho việc gửi các loại công văn, giấy tờ; ngoài ra còn có các chi phí để thực hiện tiêu hủy tang vật theo quy định[2] (trong trường hợp người được nhận không nhận tài sản). Các chi phí đó đều lấy từ nguồn chi hoạt động của cơ quan THADS[3].

Như vậy, có thể thấy, mặc dù khoản phải thi hành ở đây chỉ là việc trả lại một tài sản rất nhỏ, nhưng theo quy định hiện hành, việc hoàn trả các tài sản có giá trị rất nhỏ hoặc các tài sản có giá trị lớn hơn cho đương sự đều phải thực hiện theo một trình tự, thủ tục chung do pháp luật quy định. Việc quy định một trình tự, thủ tục chung khi trả lại cho các loại tài sản này gây ra khá nhiều bất cập trong thực tiễn. Điều 126 Luật Thi hành án dân sự quy định: Sau khi có quyết định trả lại tiền, tài sản tạm giữ, chấp hành viên thông báo cho đương sự thời gian, địa điểm nhận lại tiền, tài sản. Hết thời hạn 03 tháng, kể từ ngày được thông báo nhưng đương sự không đến nhận tài sản mà không có lý do chính đáng thì chấp hành viên xử lý tài sản theo quy định tại các điều 98, 99, 101 Luật Thi hành án dân sự (tiến hành định giá và bán tài sản) và gửi số tiền thu được theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn, đồng thời thông báo cho đương sự. Đối với tài sản không bán được hoặc bị hư hỏng không còn giá trị sử dụng thì thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định tiêu hủy và tổ chức tiêu hủy tài sản theo quy định tại Điều 125 Luật Thi hành án dân sự (cơ quan THADS thành lập hội đồng tiêu huỷ vật chứng, tài sản gồm chấp hành viên là chủ tịch hội đồng, đại diện cơ quan tài chính cùng cấp là thành viên, đại diện cơ quan chuyên môn tham gia hội đồng khi cần thiết và đại diện Viện kiểm sát nhân dân tham gia để tiêu hủy vật chứng).

Vấn đề vướng mắc ở đây là thời gian để xử lý tài sản trong trường hợp đương sự không đến nhận vẫn còn quá dài (05 năm). Việc này gây ra không ít khó khăn cho quá trình tổ chức thi hành án, tốn kém thời gian, công sức của chấp hành viên[4]. Do đó, cần có quy định rút ngắn thời gian và thủ tục xử lý khi đương sự không đến nhận tài sản (đặc biệt là đối với việc trả lại các tài sản có giá trị nhỏ) để giảm thiểu tối đa thời gian tổ chức thi hành án.

Mặt khác, cần bổ sung quy định về việc cho phép gửi các tài sản có giá trị nhỏ qua đường bưu điện (tương tự quy định tại Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP đối với tài sản là khoản tiền có giá trị nhỏ hơn 01 tháng lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Nhà nước quy định) vì hiện nay, quy định này mới chỉ áp dụng đối với tài sản là tiền, mà chưa áp dụng đối với tài sản là vật có giá trị nhỏ. Quy định như vậy sẽ giảm bớt các loại giấy tờ, thủ tục hành chính phát sinh và nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành án.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự thì khoản trả lại tiền, tài sản cho đương sự thuộc loại việc chủ động thi hành án nên sẽ do cơ quan THADS chủ động tổ chức thi hành. Điều này đồng nghĩa với việc ngân sách nhà nước phải chi trả các chi phí phát sinh; mặt khác, việc trả lại tài sản có giá trị quá nhỏ, có thể chính bản thân người được nhận lại tài sản cũng không có nhu cầu nhận, cũng là một việc làm không thật sự cần thiết. Do đó, có quan điểm cho rằng, có thể cân nhắc chuyển khoản “trả lại tiền, tài sản cho đương sự” sang loại việc theo yêu cầu, sẽ thuận lợi hơn cho cơ quan THADS, góp phần giảm tải công việc cho chấp hành viên, giảm thiểu các chi phí phát sinh. Theo đó, đối với những khoản tiền, tài sản được tuyên trả lại cho đương sự, bản án, quyết định cần giải thích rõ quyền yêu cầu thi hành án của đương sự. Sau một thời gian nhất định, nếu đương sự không liên hệ để yêu cầu nhận lại tài sản thì cơ quan THADS sẽ thực hiện sung công quỹ nhà nước.

3. Về trả lại tài sản cho phạm nhân

Tổ chức thi hành án dân sự đối với đương sự là phạm nhân đang chấp hành hình phạt tù là một công việc rất khó khăn, phức tạp, không chỉ đối với người phải thi hành án là phạm nhân mà còn cả đối với những trường hợp trả lại tiền, tài sản, giấy tờ cho phạm nhân là người được thi hành án.

Vấn đề trả lại tiền, tài sản, giấy tờ cho người được thi hành án là phạm nhân được quy định tại Điều 129 Luật Thi hành án dân sự và Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC ngày 06/02/2013 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính hướng dẫn trình tự, thủ tục thu, nộp, quản lý tiền, giấy tờ của người phải THADS và trả tiền, giấy tờ cho người được THADS là phạm nhân (Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC). Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng các quy định trên còn gặp rất nhiều bất cập, cụ thể:

Một là, khó xác định trại giam của đương sự

Theo khoản 1 Điều 129 Luật Thi hành án dân sự, chấp hành viên gửi thông báo, quyết định về việc nhận lại tiền, tài sản cho người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù thông qua giám thị trại giam, trại tạm giam. Tuy nhiên, việc xác định trại giam của đương sự không phải lúc nào cũng được thực hiện một cách dễ dàng, thuận lợi, đặc biệt là đối với một số trường hợp gia đình và địa phương không biết thông tin về nơi đương sự phải chấp hành hình phạt tù.

Tình trạng không xác định được địa chỉ trại giam của đương sự là khá phổ biến mà các cơ quan THADS thường gặp phải. Mặc dù Điều 3 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC đã quy định rõ giám thị trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự, công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan THADS nơi Tòa án đã xét xử sơ thẩm họ, tên, địa chỉ của phạm nhân là người phải THADS hoặc phạm nhân là người được thi hành án theo bản án hình sự, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tiếp nhận phạm nhân vào trại giam. Tuy nhiên, việc thực hiện quy định trên ở nhiều nơi vẫn còn hạn chế. Trong một số trường hợp, việc tìm hiểu và xác định trại giam nơi người được thi hành án đang chấp hành hình phạt tù còn làm mất khá nhiều thời gian của chấp hành viên, làm giảm hiệu quả thi hành án.

Hai là, thủ tục trả lại tài sản cho phạm nhân còn phức tạp

Khoản 1 Điều 10 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC quy định: Trường hợp phạm nhân là người được THADS có đơn đề nghị được nhận tiền, giấy tờ tại trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện thì trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện có trách nhiệm thông báo cho cơ quan THADS biết; trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo, cơ quan THADS có trách nhiệm gửi tiền, giấy tờ cho giám thị trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện để tiến hành việc trả tiền, giấy tờ cho phạm nhân là người được THADS theo quyết định trả tiền, giấy tờ. Tuy nhiên, nhiều phạm nhân có trình độ hiểu biết hạn chế, cá biệt còn có những phạm nhân không biết chữ, do đó, quy định phạm nhân có đơn xin nhận tiền, giấy tờ trong trại giam đôi khi rất khó khăn. Mặt khác, đối với những tài sản được trả lại có giá trị quá nhỏ thì việc trả lại càng khó khăn hơn khi đương sự thì ở trong trại giam, người nhà đương sự thì không muốn đến nhận do tài sản có giá trị quá nhỏ, nhất là khi họ lại cư trú ở các tỉnh xa với nơi xử án.

Điểm c Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy. Đối với những tài sản, vật chứng không có giá trị, giá trị nhỏ hoặc không sử dụng được thì Tòa án nên tuyên tiêu hủy đối với vật chứng đó, không nên tuyên trả lại cho bị cáo, nhất là khi bị cáo phải chịu hình phạt tù giam với thời gian dài. Việc thống nhất giữa quá trình xét xử với việc xem xét xử lý các tài sản, tang vật của vụ án sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho giai đoạn THADS, giảm tải công việc cho các cơ quan THADS, tiết kiệm thời gian, nhân lực, chi phí của Nhà nước.

Khoản 4 Điều 4 Thông tư liên tịch số 07/2013/TTLT-BTP-BCA-BTC quy định: Trường hợp phạm nhân là người được THADS thì cơ quan THADS trực tiếp chuyển tiền cho người được thi hành án thông qua giám thị trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện hoặc chuyển vào tài khoản tạm gửi của trại giam, cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện. Đối với giấy tờ khác thì cơ quan THADS chuyển giao cho giám thị trại giam, thủ trưởng cơ quan thi hành án hình sự công an cấp huyện để trả lại cho phạm nhân là người được thi hành án. Tuy nhiên, quy định này của Thông tư lại không áp dụng đối với các tài sản khác (ngoài tiền), trong khi số lượng việc thi hành án phải trả lại các tài sản khác cho phạm nhân là rất lớn. Do đó, nên xem xét bổ sung quy định rõ đối với những tài sản có giá trị nhỏ (ước tính giá trị còn lại dưới 2.000.000 đồng) trong trường hợp đã xác định được chính xác địa chỉ trại giam, cơ quan THADS thực hiện luôn việc chuyển trả tài sản vào trại giam để trại giam tiến hành trả cho phạm nhân mà không cần các thủ tục như đơn xin nhận tài sản, ủy quyền nhận tài sản… để rút ngắn thời gian thi hành án.

Về thủ tục trả lại tiền, tài sản cho phạm nhân đối với các tài sản có giá trị nhỏ cũng cần có những quy định đơn giản hơn. Quy định về giấy ủy quyền có xác nhận của trại giam (khoản 1 Điều 129 Luật Thi hành án dân sự) chỉ nên áp dụng đối với trường hợp tài sản có giá trị lớn, còn đối với các tài sản có giá trị nhỏ thì không nên áp dụng quy định này vì trong thực tiễn, việc xin xác nhận của trại giam vào đơn xin nhận tài sản hoặc giấy ủy quyền cũng gặp rất nhiều khó khăn do phạm nhân bị quản lý rất chặt chẽ, việc người nhà phạm nhân đến trại giam xin xác nhận ủy quyền nhận tài sản cũng rất khó khăn, mất nhiều thời gian tổ chức thi hành án. Do đó, đối với các trường hợp tài sản có giá trị nhỏ, nên quy định thân nhân của phạm nhân có thể xin xác nhận của chính quyền địa phương về nhân thân để đến nhận tài sản tại cơ quan thi hành án, điều này cũng sẽ giản tiện bớt thủ tục và cũng tạo thuận lợi cho chấp hành viên trong quá trình tác nghiệp.

Từ thực tiễn thi hành khoản trả lại tiền, tài sản có giá trị nhỏ nêu trên, có thể thấy, việc nghiên cứu xây dựng một cơ chế “thi hành án rút gọn” đối với các vụ việc thi hành án có giá trị nhỏ, tính chất đơn giản là vô cùng cần thiết để có thể giải quyết dứt điểm các việc thi hành án hoàn trả tiền, tài sản còn tồn đọng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác THADS.

ThS. Hoàng Thị Thanh Hoa
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội


[1] Khoản 2 Điều 36 Luật Thi hành án dân sự.

[2] Điều 13 Thông tư số 200/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016 của Bộ Tài chính quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế thi hành án dân sự.

[3] Điều 12 Thông tư số 200/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016 của Bộ Tài chính quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế thi hành án dân sự.

[4] Xem thêm: Hoàng Thị Thanh Hoa, Trả lại tài sản thi hành án - Một số bất cập từ thực tiễn

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi