Thứ bảy 21/06/2025 06:35
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Góp ý Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” dưới góc nhìn đầu tưGóp ý Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” dưới góc nhìn đầu tư

Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu, Điều 32 Dự luật quy định: 1. Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

1. Cần điều chỉnh tên gọi, đối tượng và phạm vi áp dụng của Dự luật

Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”[1] (gọi tắt là Dự luật/Dự thảo) có phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng liên quan đến các vấn đề tại các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang). Với tên gọi “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”, tác giả cho rằng, với tên gọi này ngoài việc làm hạn chế tính quy phạm của một văn bản quy phạm pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước trong việc phải xây dựng được cả ba đặc khu (mới thể hiện được tính khả thi của Luật), vừa hạn chế sự phát triển của các địa phương khác (nếu như ở đó có đủ điều kiện để xây dựng một đặc khu).

Do vậy, Luật nên lấy tên là “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”. Theo đó, các điều luật cần sửa đổi theo hướng không gắn với bất cứ một địa danh nào, cụ thể là:

- Điều 1, Điều 2, khoản 4 Điều 16, Điều 88 và các điều có cách diễn đạt tương tự: Bỏ cụm từ Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa), Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) hoặc Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.

- Điều 16 (ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu): Theo Dự thảo, khoản 1 nêu: “1. Tại đặc khu Vân Đồn ưu tiên phát triển các ngành, nghề: Công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại.

Danh mục ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu Vân Đồn được quy định tại Phụ lục 1 của Luật này”.

Thay vì nhắc đến Vân Đồn, khoản 1 chỉ cần quy định: “1. Danh mục ngành, nghề ưu tiên phát triển về công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại được quy định tại Phụ lục 1 của Luật này”.

Sau đó, Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập đặc khu Vân Đồn sẽ nêu “ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu Vân Đồn gồm công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại”.

Tương tự như vậy, khoản 2 và khoản 3 cũng cần diễn đạt lại để bỏ tên đặc khu Phú Quốc và Bắc Vân Phong ra khỏi Dự luật.

- Điều 54 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Vân Đồn), Điều 55 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Bắc Vân Phong), Điều 56 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Phú Quốc) chỉ cần ghép lại thành một điều và quy định:

“Điều… Cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại mỗi đặc khu được quy định trong nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập đặc khu tương ứng”.

Cũng tại Điều 54, cách diễn đạt tại khoản 2 nên thay từ “Vân Đồn” thứ nhất thành cụm từ “mới được thành lập tại các đặc khu”, “Vân Đồn” thứ hai thành từ “này”: Các hãng hàng không mở mới các tuyến bay đến và đi tại Cảng hàng không mới được thành lập tại các đặc khu được hỗ trợ phí cất hạ cánh, chi phí sân đỗ máy bay và chi phí liên quan tối đa bằng 30% tổng giá vé của chuyến bay trong 06 tháng đầu tiên kể từ khi mở đường bay mới đến Cảng hàng không này, nhưng tối đa không quá 03 tỷ đồng/tuyến.

- Điều 57 (tổ chức đặc khu): Thay vì quy định “1. Đặc khu Vân Đồn trực thuộc tỉnh Quảng Ninh, đặc khu Bắc Vân Phong trực thuộc tỉnh Khánh Hòa, đặc khu Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. 2. Địa giới hành chính, diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc do Quốc hội quyết định khi thành lập. 3. Đặc khu có các khu hành chính được xác định theo ranh giới địa lý”, Luật nên quy định: Phân cấp quản lý, địa giới hành chính, diện tích tự nhiên, quy mô dân số của mỗi đặc khu do Quốc hội quyết định khi thành lập.

Tóm lại, khi đã điều chỉnh tên gọi của Luật thì tất cả các quy phạm có nhắc đến ba địa danh Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (cũng như các địa danh liên quan như: Quảng Ninh, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Kiên Giang) đều phải được diễn đạt lại. Với quy định này, Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt chính là cơ sở để Nhà nước thành lập các đặc khu nhưng không nhất thiết phải thành lập cùng một lúc cả ba đặc khu như dự định ban đầu.

2. Thời hạn cho thuê đất không nên vượt quá 70 năm

Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu, Điều 32 Dự luật quy định: 1. Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Về Điều luật này, tác giả cho rằng có hai vấn đề cần bàn:

Một là, quy định của Dự luật chưa thật sự phù hợp với Luật Đất đai hiện hành

Luật Đất đai năm 2013 quy định 05 mức thời hạn cho thuê đất. Trong đó:

* Mức 1: Thời hạn không quá 05 năm, áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

* Mức 2: Thời hạn không quá 50 năm, áp dụng đối với:

- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp (theo quy định tại khoản 1, khoản 2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129);

- Đối với hộ gia đình, cá nhân thuê đất nông nghiệp;

- Đối với tổ chức sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; tổ chức để thực hiện các dự án đầu tư;

- Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.

* Mức 3: Thời hạn không quá 70 năm, áp dụng đối với:

- Dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn;

- Đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và các công trình công cộng có mục đích kinh doanh là không quá 70 năm.

* Mức 4: Thời hạn không quá 99 năm, áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

* Mức 5: Thời hạn sử dụng đất ổn định lâu dài dành cho các trường hợp người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, thời hạn sử dụng đất dành cho chủ đầu tư được xác định theo thời hạn của dự án, được áp dụng đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê hoặc để cho thuê mua.

Trong tất cả các mức thời hạn cho thuê đất nêu trên, Luật Đất đai đều có quy định khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn tương ứng.

Đối chiếu với Điều 126 Luật Đất đai, tác giả nhận thấy quy định về thời hạn cho thuê đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu “không quá 70 năm” hay trong trường hợp đặc biệt, thời hạn “không quá 99 năm” là không hoàn toàn phù hợp, như:

- Thời hạn “không quá 70 năm”, pháp luật hiện hành chỉ áp dụng đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn. Nếu vận dụng quy định này để cho nhà đầu tư đặc khu thuê mức 70 năm thì chỉ có thể quy định đối với “dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm”. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mức áp dụng cao nhất cũng chỉ là 50 năm.

- Thời hạn “không quá 99 năm”, Luật Đất đai năm 2013 chỉ áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

Hai là, ưu đãi về chính sách đất đai quá lớn

Tác giả hoàn toàn tán thành với ý kiến đóng góp xây dựng Luật của đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc[2], rằng: “Việt Nam phải chứng minh với các nhà đầu tư rằng họ đến đây là có lợi, nhưng không cần đến quy định cho thuê đất đến 99 năm”.

Luật Đất đai hiện hành có quy định khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất. Do vậy, những con số 70 năm, 99 năm trong Điều 32 nên được điều chỉnh lại thành các con số tương ứng là 50 năm và 70 năm. Trong đó, 50 năm là trường hợp phổ biến, còn 70 năm là trường hợp thật hy hữu, cá biệt đối với các nhà đầu tư trong nước. Đối với nhà đầu tư nước ngoài thì nên quy định mức thấp hơn, tác giả cho rằng nên chọn cặp số tương ứng là 30 năm, 50 năm và có những điều kiện tương ứng thích hợp. Trường hợp không thể quy định khác thì áp dụng như đối với các nhà đầu tư trong nước.

3. Nên quy định tỷ lệ, số lượng dự án đầu tư nước ngoài và lao động là người nước ngoài tại đặc khu

Nghiên cứu quy định có liên quan đến các dự án và các nhà đầu tư nước ngoài tại đặc khu, tác giả nhận thấy Điều 46 Dự thảo có quy định về chính sách đối với người lao động. Trong đó, giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quy định “tỷ lệ hoặc số lượng tối đa lao động kỹ thuật là người nước ngoài làm việc tại doanh nghiệp thuộc đặc khu theo ngành, nghề”.

Điều này có nghĩa là Nhà nước đã chú ý đến việc khống chế tỷ lệ và số lượng “lao động kỹ thuật là người nước ngoài”. Tác giả cho rằng quy định này là cần thiết, nhưng cần thiết hơn nữa là việc khống chế tỷ lệ và số lượng các dự án đầu tư nước ngoài và lao động phổ thông là người nước ngoài tại đặc khu.

Như vậy, Quốc hội cần nghiên cứu, quy định trong Luật và trao quyền cho chính quyền đặc khu triển khai thực hiện.

Theo đó, để thực thi được quy định này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu cần có động tác điều tra và thống kê cụ thể về tình hình các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, lao động kỹ thuật và lao động phổ thông là người nước ngoài theo từng quốc gia trước khi tiến hành cấp phép đầu tư thêm cho các dự án đầu tư nước ngoài tại đặc khu. Như vậy, đối chiếu với tỷ lệ được cho phép, trên cơ sở các số liệu thống kê, chính quyền đặc khu không những sẽ “mạnh dạn” cấp hoặc không cấp thêm giấy phép đầu tư nước
ngoài mà còn sàng lọc, điều chuyển những dự án, những lao động dôi dư hiện tại sang lĩnh vực ngành, nghề khác. Nếu không chú trọng vấn đề này, nếu tình trạng số lượng nhà đầu tư và lao động phổ thông của một nước nào đó bao phủ lên toàn bộ đặc khu, không còn chỗ cho các nhà đầu tư và lao động trong nước cũng như của các quốc gia khác có thiện chí muốn vào, chúng ta không có cơ sở giải quyết. Nếu chúng ta không kiên quyết và không tính toán sớm thì đến một lúc nào đó, mặc dù số lượng đã quá tải nhưng chúng ta không có cơ sở và không thể “mời” họ ra khỏi đặc khu cũng như ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

ThS. Trần Thị Mai Phước

Khoa Luật, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh


[1] Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, bản lấy ý kiến đại biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội chuyên trách, khai mạc ngày 06/9/2018.

[2] Tại phiên thảo luận tại Hội trường, ngày 23/5, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm