Thứ hai 08/12/2025 01:41
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Góp ý Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” dưới góc nhìn đầu tưGóp ý Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc” dưới góc nhìn đầu tư

Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu, Điều 32 Dự luật quy định: 1. Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

1. Cần điều chỉnh tên gọi, đối tượng và phạm vi áp dụng của Dự luật

Dự luật “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”[1] (gọi tắt là Dự luật/Dự thảo) có phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng liên quan đến các vấn đề tại các đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang). Với tên gọi “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc”, tác giả cho rằng, với tên gọi này ngoài việc làm hạn chế tính quy phạm của một văn bản quy phạm pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của Nhà nước trong việc phải xây dựng được cả ba đặc khu (mới thể hiện được tính khả thi của Luật), vừa hạn chế sự phát triển của các địa phương khác (nếu như ở đó có đủ điều kiện để xây dựng một đặc khu).

Do vậy, Luật nên lấy tên là “Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt”. Theo đó, các điều luật cần sửa đổi theo hướng không gắn với bất cứ một địa danh nào, cụ thể là:

- Điều 1, Điều 2, khoản 4 Điều 16, Điều 88 và các điều có cách diễn đạt tương tự: Bỏ cụm từ Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh Khánh Hòa), Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) hoặc Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc.

- Điều 16 (ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu): Theo Dự thảo, khoản 1 nêu: “1. Tại đặc khu Vân Đồn ưu tiên phát triển các ngành, nghề: Công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại.

Danh mục ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu Vân Đồn được quy định tại Phụ lục 1 của Luật này”.

Thay vì nhắc đến Vân Đồn, khoản 1 chỉ cần quy định: “1. Danh mục ngành, nghề ưu tiên phát triển về công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại được quy định tại Phụ lục 1 của Luật này”.

Sau đó, Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập đặc khu Vân Đồn sẽ nêu “ngành, nghề ưu tiên phát triển tại đặc khu Vân Đồn gồm công nghệ cao; công nghiệp hỗ trợ công nghệ cao; du lịch và công nghiệp văn hóa; cảng hàng không, cảng biển, thương mại”.

Tương tự như vậy, khoản 2 và khoản 3 cũng cần diễn đạt lại để bỏ tên đặc khu Phú Quốc và Bắc Vân Phong ra khỏi Dự luật.

- Điều 54 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Vân Đồn), Điều 55 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Bắc Vân Phong), Điều 56 (cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại đặc khu Phú Quốc) chỉ cần ghép lại thành một điều và quy định:

“Điều… Cơ chế, chính sách đặc biệt khác tại mỗi đặc khu được quy định trong nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập đặc khu tương ứng”.

Cũng tại Điều 54, cách diễn đạt tại khoản 2 nên thay từ “Vân Đồn” thứ nhất thành cụm từ “mới được thành lập tại các đặc khu”, “Vân Đồn” thứ hai thành từ “này”: Các hãng hàng không mở mới các tuyến bay đến và đi tại Cảng hàng không mới được thành lập tại các đặc khu được hỗ trợ phí cất hạ cánh, chi phí sân đỗ máy bay và chi phí liên quan tối đa bằng 30% tổng giá vé của chuyến bay trong 06 tháng đầu tiên kể từ khi mở đường bay mới đến Cảng hàng không này, nhưng tối đa không quá 03 tỷ đồng/tuyến.

- Điều 57 (tổ chức đặc khu): Thay vì quy định “1. Đặc khu Vân Đồn trực thuộc tỉnh Quảng Ninh, đặc khu Bắc Vân Phong trực thuộc tỉnh Khánh Hòa, đặc khu Phú Quốc trực thuộc tỉnh Kiên Giang. 2. Địa giới hành chính, diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các đặc khu Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc do Quốc hội quyết định khi thành lập. 3. Đặc khu có các khu hành chính được xác định theo ranh giới địa lý”, Luật nên quy định: Phân cấp quản lý, địa giới hành chính, diện tích tự nhiên, quy mô dân số của mỗi đặc khu do Quốc hội quyết định khi thành lập.

Tóm lại, khi đã điều chỉnh tên gọi của Luật thì tất cả các quy phạm có nhắc đến ba địa danh Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (cũng như các địa danh liên quan như: Quảng Ninh, Vạn Ninh, Khánh Hòa, Kiên Giang) đều phải được diễn đạt lại. Với quy định này, Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt chính là cơ sở để Nhà nước thành lập các đặc khu nhưng không nhất thiết phải thành lập cùng một lúc cả ba đặc khu như dự định ban đầu.

2. Thời hạn cho thuê đất không nên vượt quá 70 năm

Về quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất tại đặc khu, Điều 32 Dự luật quy định: 1. Căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án đầu tư và đề xuất của nhà đầu tư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quyết định thời hạn sử dụng đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu không quá 70 năm; trường hợp đặc biệt, thời hạn sử dụng đất có thể dài hơn nhưng không quá 99 năm do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Về Điều luật này, tác giả cho rằng có hai vấn đề cần bàn:

Một là, quy định của Dự luật chưa thật sự phù hợp với Luật Đất đai hiện hành

Luật Đất đai năm 2013 quy định 05 mức thời hạn cho thuê đất. Trong đó:

* Mức 1: Thời hạn không quá 05 năm, áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

* Mức 2: Thời hạn không quá 50 năm, áp dụng đối với:

- Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp (theo quy định tại khoản 1, khoản 2, điểm b khoản 3, khoản 4 và khoản 5 Điều 129);

- Đối với hộ gia đình, cá nhân thuê đất nông nghiệp;

- Đối với tổ chức sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối; tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích thương mại, dịch vụ, làm cơ sở sản xuất phi nông nghiệp; tổ chức để thực hiện các dự án đầu tư;

- Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.

* Mức 3: Thời hạn không quá 70 năm, áp dụng đối với:

- Dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn;

- Đất xây dựng công trình sự nghiệp của tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính và các công trình công cộng có mục đích kinh doanh là không quá 70 năm.

* Mức 4: Thời hạn không quá 99 năm, áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

* Mức 5: Thời hạn sử dụng đất ổn định lâu dài dành cho các trường hợp người mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất.

Ngoài ra, thời hạn sử dụng đất dành cho chủ đầu tư được xác định theo thời hạn của dự án, được áp dụng đối với dự án kinh doanh nhà ở để bán hoặc để bán kết hợp với cho thuê hoặc để cho thuê mua.

Trong tất cả các mức thời hạn cho thuê đất nêu trên, Luật Đất đai đều có quy định khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất nhưng không quá thời hạn tương ứng.

Đối chiếu với Điều 126 Luật Đất đai, tác giả nhận thấy quy định về thời hạn cho thuê đất để sản xuất, kinh doanh tại đặc khu “không quá 70 năm” hay trong trường hợp đặc biệt, thời hạn “không quá 99 năm” là không hoàn toàn phù hợp, như:

- Thời hạn “không quá 70 năm”, pháp luật hiện hành chỉ áp dụng đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn. Nếu vận dụng quy định này để cho nhà đầu tư đặc khu thuê mức 70 năm thì chỉ có thể quy định đối với “dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm”. Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mức áp dụng cao nhất cũng chỉ là 50 năm.

- Thời hạn “không quá 99 năm”, Luật Đất đai năm 2013 chỉ áp dụng đối với trường hợp cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.

Hai là, ưu đãi về chính sách đất đai quá lớn

Tác giả hoàn toàn tán thành với ý kiến đóng góp xây dựng Luật của đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc[2], rằng: “Việt Nam phải chứng minh với các nhà đầu tư rằng họ đến đây là có lợi, nhưng không cần đến quy định cho thuê đất đến 99 năm”.

Luật Đất đai hiện hành có quy định khi hết thời hạn, người sử dụng đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng thì được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất. Do vậy, những con số 70 năm, 99 năm trong Điều 32 nên được điều chỉnh lại thành các con số tương ứng là 50 năm và 70 năm. Trong đó, 50 năm là trường hợp phổ biến, còn 70 năm là trường hợp thật hy hữu, cá biệt đối với các nhà đầu tư trong nước. Đối với nhà đầu tư nước ngoài thì nên quy định mức thấp hơn, tác giả cho rằng nên chọn cặp số tương ứng là 30 năm, 50 năm và có những điều kiện tương ứng thích hợp. Trường hợp không thể quy định khác thì áp dụng như đối với các nhà đầu tư trong nước.

3. Nên quy định tỷ lệ, số lượng dự án đầu tư nước ngoài và lao động là người nước ngoài tại đặc khu

Nghiên cứu quy định có liên quan đến các dự án và các nhà đầu tư nước ngoài tại đặc khu, tác giả nhận thấy Điều 46 Dự thảo có quy định về chính sách đối với người lao động. Trong đó, giao cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu quy định “tỷ lệ hoặc số lượng tối đa lao động kỹ thuật là người nước ngoài làm việc tại doanh nghiệp thuộc đặc khu theo ngành, nghề”.

Điều này có nghĩa là Nhà nước đã chú ý đến việc khống chế tỷ lệ và số lượng “lao động kỹ thuật là người nước ngoài”. Tác giả cho rằng quy định này là cần thiết, nhưng cần thiết hơn nữa là việc khống chế tỷ lệ và số lượng các dự án đầu tư nước ngoài và lao động phổ thông là người nước ngoài tại đặc khu.

Như vậy, Quốc hội cần nghiên cứu, quy định trong Luật và trao quyền cho chính quyền đặc khu triển khai thực hiện.

Theo đó, để thực thi được quy định này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân đặc khu cần có động tác điều tra và thống kê cụ thể về tình hình các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, lao động kỹ thuật và lao động phổ thông là người nước ngoài theo từng quốc gia trước khi tiến hành cấp phép đầu tư thêm cho các dự án đầu tư nước ngoài tại đặc khu. Như vậy, đối chiếu với tỷ lệ được cho phép, trên cơ sở các số liệu thống kê, chính quyền đặc khu không những sẽ “mạnh dạn” cấp hoặc không cấp thêm giấy phép đầu tư nước
ngoài mà còn sàng lọc, điều chuyển những dự án, những lao động dôi dư hiện tại sang lĩnh vực ngành, nghề khác. Nếu không chú trọng vấn đề này, nếu tình trạng số lượng nhà đầu tư và lao động phổ thông của một nước nào đó bao phủ lên toàn bộ đặc khu, không còn chỗ cho các nhà đầu tư và lao động trong nước cũng như của các quốc gia khác có thiện chí muốn vào, chúng ta không có cơ sở giải quyết. Nếu chúng ta không kiên quyết và không tính toán sớm thì đến một lúc nào đó, mặc dù số lượng đã quá tải nhưng chúng ta không có cơ sở và không thể “mời” họ ra khỏi đặc khu cũng như ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

ThS. Trần Thị Mai Phước

Khoa Luật, Trường Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh


[1] Dự thảo Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, bản lấy ý kiến đại biểu tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội chuyên trách, khai mạc ngày 06/9/2018.

[2] Tại phiên thảo luận tại Hội trường, ngày 23/5, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.

Theo dõi chúng tôi trên: