Thứ bảy 14/06/2025 02:14
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm trong Bộ Luật Tố tụng hình sự

Tóm tắt: Bài viết đề cập tới một số hạn chế, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm, từ đó, đề xuất sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định về phiên tòa hình sự sơ thẩm.

Abstract: The article mentions some limitations and inadequacies in the Penal Code of 2015, particularly in the regulations on criminal trial in first instance and from this to propose amendments and completion of regulations on criminal trial in first instance.

Phiên tòa hình sự sơ thẩm là hình thức tố tụng của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Phiên tòa hình sự sơ thẩm là nơi mà các bên thực thi chức năng tố tụng của mình một cách công khai và đầy đủ nhất. Kiểm sát viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là người thực hiện chức năng buộc tội - thực hành quyền công tố trước phiên tòa. Bị cáo và người bào chữa của họ là bên thực hành chức năng bào chữa trong sự bảo hộ đầy đủ của pháp luật tố tụng. Và cuối cùng, Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng xét xử, là chủ thể phán xét, xác định bị cáo có tội hay không có tội cũng như áp dụng loại và mức hình phạt cụ thể trong trường hợp bị cáo có tội. Bản chất của hoạt động xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm chính là sự kiểm tra kết quả của hoạt động điều tra, truy tố, khắc phục những thiếu sót, vi phạm trong các giai đoạn tố tụng trước đó. Việc xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm được thực hiện một cách công bằng, khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật sẽ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Ngược lại, nếu việc xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm không chính xác, không công bằng, không khách quan sẽ có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, gây oan sai cho người vô tội, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tính nghiêm minh của pháp luật cũng như trật tự xã hội.

Để đảm bảo hiệu quả của công tác xét xử sơ thẩm hình sự, đòi hỏi quy định pháp luật về trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm phải rõ ràng, cụ thể, bao quát được các tình huống có thể xảy ra trên thực tế. Tuy nhiên, dù đã được sửa đổi, bổ sung bởi Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nhưng những quy định pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, dẫn đến việc xảy ra oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, việc đưa ra những đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm là nhu cầu cấp thiết hiện nay.

1. Một số bất cập của pháp luật về phiên tòa hình sự sơ thẩm

Một là, thủ tục bắt đầu phiên tòa

Đây là phần mở đầu của phiên tòa xét xử được quy định từ Điều 300 đến Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Thủ tục bắt đầu phiên tòa được mở đầu bằng việc chủ tọa phiên tòa tuyên bố khai mạc phiên tòa rồi đọc Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau khi thư ký báo cáo danh sách những người có mặt, vắng mặt tại phiên tòa thì tùy theo lý do vắng mặt có chính đáng hay không mà hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử hay hoãn phiên tòa. Thủ tục bắt đầu phiên tòa theo quy định hiện hành là khá rõ ràng, cụ thể và hợp lý. Tuy nhiên, Điều 303, Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trách nhiệm cam đoan làm tròn nhiệm vụ, khai trung thực của người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người làm chứng nhưng chưa rõ ràng, vì vậy, cần quy định cụ thể hơn về thủ tục, hình thức thực hiện cam đoan như tuyên thệ trước Tòa án hay ký xác nhận cam đoan... nhằm nâng cao trách nhiệm tôn trọng sự thật của các chủ thể này.

Hai là, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa

Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa bao gồm thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, được quy định từ Điều 306 đến Điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Thủ tục xét hỏi được mở đầu bằng việc kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung, nếu có. Sau đó, hội đồng xét xử sẽ để cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trình bày ý kiến của mình về bản cáo trạng và các tình tiết của vụ án rồi mới hỏi thêm về những điểm nào đó mà họ trình bày chưa đủ hoặc có mâu thuẫn. Sau khi kết thúc việc xét hỏi, phiên tòa hình sự sơ thẩm sẽ chuyển sang thủ tục tranh luận. Kiểm sát viên trình bày lời luận tội của mình, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung của cáo trạng hay rút bớt một phần nội dung truy tố của cáo trạng hoặc kết luận bị cáo phạm tội nhẹ hơn, đồng thời đề nghị loại hình phạt, mức hình phạt cũng như các biện pháp tư pháp khác. Sau lời luận tội của kiểm sát viên, bị cáo hoặc người bào chữa cho bị cáo sẽ trình bày lời bào chữa, bị cáo có quyền trình bày ý kiến bổ sung vào lời bào chữa. Tiếp theo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ lần lượt được trình bày ý kiến về việc luận tội của kiểm sát viên và đưa ra các đề nghị để bảo vệ quyền lợi của mình, cũng như nếu có người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì người này được quyền đề nghị, trình bày ý kiến của mình đối với lời luận tội và ý kiến để bảo vệ quyền lợi cho người mà mình nhận bảo vệ. Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý kiến, người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, chủ tọa phiên tòa không hạn chế thời gian tranh luận và phải tạo điều kiện thuận lợi để cho những người tham gia tố tụng trình bày hết ý kiến của mình, nhưng chủ tọa có quyền cắt những ý kiến không liên quan hoặc những ý kiến trùng lặp đã được đối đáp rồi. Đồng thời, chủ tọa cũng có quyền yêu cầu kiểm sát viên phải đối đáp lại những ý kiến yêu cầu của người bào chữa hoặc của những người tham gia tố tụng khác nếu như những ý kiến đó chưa được tranh luận. Đây là quy định mới được bổ sung nhằm đảm bảo cho việc xét xử được công bằng dân chủ, đáp ứng yêu cầu tranh tụng mà chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra. Quy định này góp phần khắc phục những tồn tại trước đây khi tranh luận, nhiều trường hợp kiểm sát viên không đưa ra được những lập luận để phản bác với ý kiến của bị cáo, của người bào chữa cho bị cáo hoặc của những người khác, không đối đáp mà chỉ trả lời giữ nguyên ý kiến luận tội hoặc giữ nguyên quyết định truy tố. Tuy nhiên, quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm vẫn còn một số bất cập sau đây:

- Điều 305 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Chủ tọa phiên tòa phải hỏi kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không”. Quy định này nhằm bảo đảm sự bình đẳng trước Tòa án giữa đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết các yêu cầu, cung cấp nguồn chứng cứ cũng như đưa ra chứng cứ trực tiếp. Tuy nhiên, yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét chỉ được giải quyết khi tiến hành thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng lại không được quy định trong phần thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Như vậy, khi vụ án đang tiến hành thủ tục tranh tụng mà người tham gia tố tụng muốn yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét thì lại không có căn cứ để hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu.

- Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Tòa án có thể vẫn tiến hành xét xử vắng mặt người làm chứng và khi tiến hành xét hỏi thì hội đồng xét xử sẽ công bố lời khai của người làm chứng trong giai đoạn điều tra, truy tố theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tuy nhiên, trong trường hợp chứng cứ được công bố trong lời khai của người làm chứng mâu thuẫn với các chứng cứ mà Tòa án thu được trực tiếp tại phiên tòa mà việc giải quyết được mâu thuẫn đòi hỏi phải triệu tập thêm người làm chứng. Nếu kiểm sát viên hoặc người tham gia tố tụng có yêu cầu thì yêu cầu này sẽ không thể được chấp nhận, vì việc giải quyết yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu ra xem xét chỉ tiến hành ở phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.

- Theo quy định tại Điều 302 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì việc thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật chỉ được đặt ra tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa. Trong trường hợp căn cứ để thay đổi những người nêu trên đã xuất hiện từ thủ tục bắt đầu phiên tòa nhưng đến khi phiên tòa chuyển sang thủ tục tranh tụng, thì những người có quyền đề nghị mới phát hiện có các căn cứ này đề nghị thay đổi. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 lại không quy định về việc cho phép trở lại phần thủ tục mà chỉ cho phép trở lại phần xét hỏi (Điều 323 Bộ luật Tố tụng hình sự) được quy định ở phần thủ tục tranh tụng, như vậy có thể ảnh hưởng quyền của bị cáo và ảnh đến chất lượng xét xử.

- Theo quy định hiện hành, thì việc xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện chủ yếu bởi hội đồng xét xử. Việc xét hỏi nhằm làm rõ những tình tiết dùng làm chứng cứ để truy tố bị cáo lại không phải là nhiệm vụ chính của Viện kiểm sát mà phụ thuộc vào hội đồng xét xử. Quy định như trên là không hợp lý, vì Viện kiểm sát thực hiện chức năng buộc tội nên tại phiên tòa, kiểm sát viên phải thực hiện việc xét hỏi để bảo vệ sự buộc tội đó, người bào chữa thực hiện chức năng gỡ tội, nên họ được thực hiện việc xét hỏi để bào chữa cho bị cáo. Trong khi đó, Tòa án đóng vai trò “trung gian”, chỉ xét xử và ra phán quyết trong phạm vi giới hạn của sự buộc tội. Vì vậy, trách nhiệm xác định các tình tiết buộc tội thuộc về Viện kiểm sát; trách nhiệm xác định các tình tiết gỡ tội thuộc về người bào chữa bị cáo; trách nhiệm xác định đầy đủ, khách quan các tình tiết buộc tội cũng như gỡ tội thuộc về Tòa án. Cho nên, khi tiến hành thủ tục xét hỏi, hội đồng xét xử chỉ lắng nghe và chủ tọa phiên tòa chỉ giữ quyền điều hành phiên tòa, quyết định cho ai hỏi ai, duy trì thời gian hỏi và có quyền cắt các ý kiến các câu hỏi không đúng trọng tâm. Hội đồng xét xử không được có những lời lẽ khẳng định hay phủ định bất cứ một vấn đề nào mà các bên tham gia tranh tụng nêu ra, cũng như không được đánh giá, nhận xét đúng sai ngay tại phiên tòa. Bởi lẽ, chức năng của Tòa án là xét xử thông qua việc xét hỏi, nghe các bên tranh luận, hội đồng xét xử sẽ đưa ra phán quyết bằng bản án nêu rõ hành vi của bị cáo có phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Việc hội đồng xét xử thể hiện quan điểm ngay tại phiên tòa sẽ ảnh hưởng đến việc tranh tụng giữa các bên, làm giảm hiệu quả tranh luận.

Ba là, thủ tục nghị án và tuyên án

Theo quy định tại Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Chỉ có thẩm phán và hội thẩm mới có quyền nghị án…” và “…các thành viên của hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một…”. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa quy định cụ thể về trường hợp nghị án nhưng không đạt được kết quả đa số như luật định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “... Nếu không có ý kiến nào chiếm đa số thì phải thảo luận và biểu quyết lại từng ý kiến của các thành viên hội đồng xét xử đã đưa ra để xác định ý kiến chiếm đa số...”. Như vậy, trong trường hợp đã biểu quyết lại nhưng các thành viên của hội đồng xét xử vẫn giữ nguyên quan điểm, thì vẫn chưa có phương án cụ thể để giải quyết. Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 7 Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại Điều 18 và Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 153 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì: “Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm”. Việc quy định về thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của hội đồng xét xử hiện nay là không hợp lý vì những lý do sau đây:

- Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thì Tòa án có hai chức năng là: Chức năng xét xử và chức năng thực hiện quyền tư pháp, trong khi đó, chức năng khởi tố vụ án hình sự không phải là nội dung của một trong hai chức năng này; đó là một nội dung trong chức năng buộc tội. Theo quy định hiện hành, Tòa án không được thực hiện chức năng buộc tội.

- Quy định cho phép Tòa án khởi tố vụ án sẽ không đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc giải quyết vụ án. Việc pháp luật tố tụng hình sự cho phép Tòa án phát động tố tụng (khởi tố vụ án) sau đó cũng chính Tòa án là chủ thể có thẩm quyền xét xử vụ án đó thì yếu tố độc lập, khách quan của Tòa án sẽ khó được đảm bảo.

- Thực tiễn cho thấy, Tòa án hiếm khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự nên quy định này hầu như ít được thực hiện trên thực tế. Nếu Tòa án muốn ra được quyết định khởi tố vụ án hình sự, thì Tòa án cần phải tiến hành hoạt động kiểm tra, xác minh các thông tin về tội phạm để xác định có dấu hiệu tội phạm hay không. Việc này đòi hỏi phải có thời gian và phải tiến hành nhiều hoạt động khác nhau, có thể là những hoạt động rất phức tạp để củng cố hồ sơ, chứng cứ, tài liệu. Hơn nữa, việc quyết định khởi tố cũng rất khó chính xác nếu chưa kiểm tra, xác minh lại những thông tin về tội phạm và người phạm tội mới chỉ được phản ánh qua lời khai của người tham gia tố tụng hoặc những tài liệu đã có trong hồ sơ, thì việc kiểm tra xác minh lại các thông tin này bằng các hoạt động ngoài phiên tòa cũng khiến việc đưa ra quyết định khởi tố vụ án khó khăn hơn.

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 158 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án, như vậy, sau khi hội đồng xét xử đã ra quyết định khởi tố vụ án, sau khi điều tra thấy không có căn cứ khởi tố theo quy định Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, thì ai là người sẽ ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự, vì thẩm quyền của hội đồng xét xử vụ án đó đã kết thúc sau khi tuyên án.

2. Kiến nghị hoàn thiện quy định về phiên tòa sơ thẩm hình sự trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách tư pháp mà Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra là: Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành và người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Để thực hiện được nhiệm vụ nêu trên, thì việc hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng hình sự về phiên tòa hình sự sơ thẩm là vấn đề được ưu tiên thực hiện hàng đầu. Vì vậy, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, quy định cụ thể về trách nhiệm cam đoan làm tròn nhiệm vụ, khai trung thực của người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người làm chứng tại Điều 303 và Điều 304 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Theo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới thì việc cam đoan làm tròn nhiệm vụ, khai trung thực của những người nêu trên phải được thể hiện bằng văn bản và được đọc trực tiếp tại phiên tòa. Do đó, nhằm cụ thể hơn nữa trách nhiệm cam đoan của người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người làm chứng để nâng cao trách nhiệm tôn trọng sự thật của những chủ thể này, tác giả đề xuất việc cam đoan phải được thể hiện bằng văn bản, có chữ ký xác nhận của người cam đoan và phải được họ đọc trực tiếp tại phiên tòa trước khi làm nhiệm vụ. Văn bản cam đoan phải có nội dung sau: (i) Cam đoan của người làm chứng: “Tôi cam đoan tôi sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật và không phải là cái gì khác ngoài sự thật mà tôi được biết, nếu có điều gì sai trái trong lời nói của tôi, tôi sẽ chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật”; (ii) Cam đoan của người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản: “Tôi cam đoan tôi sẽ làm tròn nhiệm vụ được giao, nếu có điều gì sai sót, tôi sẽ chịu trách nhiệm theo quy định pháp luật”.

Thứ hai, sửa đổi các quy định về thủ tục xét hỏi theo hướng Tòa án chỉ là nơi phân xử, quyết định của hội đồng xét xử dựa trên kết quả xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa

Theo quan điểm của tác giả, thì trình tự xét hỏi quy định tại Điều 307 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần sửa đổi theo hướng: Kiểm sát viên xét hỏi trước, tiếp theo là người bào chữa, người bảo vệ quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên hỏi về các tình tiết liên quan đến việc buộc tội; người bào chữa hỏi về các tình tiết liên quan đến việc gỡ tội; người bảo vệ quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà mình bảo vệ. Bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác xét hỏi về những tình tiết có liên quan đến mình. Nếu thấy tình tiết có mâu thuẫn thì hội đồng xét xử có quyền trực tiếp xét hỏi để làm rõ mâu thuẫn giữa các tình tiết. Khoản 2 Điều 307 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần được sửa đổi như sau: “Khi xét hỏi từng người, kiểm sát viên hỏi trước rồi đến người bào chữa, người bảo vệ quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền xét hỏi về những tình tiết có liên quan đến mình. Sau khi các bên hỏi xong, chủ tọa phiên tòa và các thành viên hội đồng xét xử có quyền hỏi nếu thấy có tình tiết mâu thuẫn”.

Thứ ba, bổ sung các quy định về việc cho phép triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét; cho phép đưa ra yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật khi tiến hành tố tụng trong bất kỳ giai đoạn nào tại phiên tòa sơ thẩm hình sự

Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì các yêu cầu nói trên chỉ được quy định tại thủ tục bắt đầu phiên tòa. Vì vậy, nếu các yêu cầu này phát sinh sau khi phiên tòa đã chuyển sang thủ tục tranh tụng thì những người có quyền đề nghị sẽ không có các căn cứ để thực hiện các yêu cầu nói trên. Các yêu cầu liên quan đến triệu tập thêm người làm chứng, yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay yêu cầu thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký phiên tòa, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật có ảnh hưởng rất lớn đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như đảm bảo sự khách quan, vô tư của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng. Vì vậy, tác giả kiến nghị bổ sung quy định như sau: “Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định mọi yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét và mọi đề nghị thay đổi thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật để xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ”.

Thứ tư, bãi bỏ quy định cho phép Hội đồng xét xử quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có việc bỏ lọt tội phạm

Quy định về việc hội đồng xét xử có thẩm quyền khởi tố vụ án trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 về chức năng của Tòa án, không đảm bảo tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc giải quyết vụ án cũng như phù hợp với thực tiễn khi hội đồng xét xử hầu như không ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trên thực tế .

ThS. Lê Thanh Phong

Tòa án nhân dân Quận 7, TP. Hồ Chí Minh

In bài viết Gửi phản hồi

Các tin khác

Bàn về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm mua bán người trong bối cảnh hội nhập quốc tế Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào hiện nay Đưa Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” vào cuộc sống theo lời Bác Hồ Một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong Dự thảo Luật Hợp tác xã Những vấn đề cần chứng minh trong tố tụng hành chính Công tác phòng, chống tình trạng người Việt Nam sang Căm-Pu-Chia đánh bạc thực trạng và giải pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm