Chủ nhật 07/12/2025 17:01
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam

Bình đẳng giới hiện nay đang trở thành vấn đề toàn cầu và được mọi quốc gia trên thế giới quan tâm. Thực hiện bình đẳng giới trên thực tế là một nhiệm vụ khó khăn và phức tạp không chỉ riêng một lĩnh vực nào mà nó đi liền với nhiều bức xúc của xã hội. Hiện nay, ở nước ta, phụ nữ chiếm phân nửa dân số cả nước, đang ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Vì vậy, bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay đã trở thành một chế định quan trọng và là nguyên tắc Hiến định trong hệ thống pháp luật, là cơ sở để thể chế hóa trong văn bản quy phạm pháp luật. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới cũng không nằm ngoài quy luật chung, nó không chỉ là nhu cầu xuất phát từ chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước, từ yêu cầu khách quan mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu của phụ nữ, của nhân dân, của xã hội và đáp ứng những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết,tham gia. Trong bài viết này, tác giả tập trung quán triệt một số quan điểm trong quá trình hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới và đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam theo hướng áp dụng các chế tài pháp luật nói chung và chế tài pháp luật bình đẳng giới nói riêng đa dạng hơn, nghiêm khắc hơn nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể nói chung và phụ nữ nói riêng ở nước ta hiện nay.

Bình đẳng giới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, là nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Bình đẳng giới vừa là mục tiêu vừa là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng xã hội ổn định và đồng thuận, phát triển bền vững đất nước. Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội. Sự phát triển của đất nước đặt ra yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để một mặt có đầy đủ khung pháp lý để điều chỉnh các hoạt động của đời sống xã hội, mặc khác để phù hợp với luật pháp quốc tế trong bối cảnh hội nhập. Bình đẳng giới là vấn đề khá nhạy cảm, nhiều chủ thể quan tâm, hoàn thiện pháp luật bình đẳng giới giúp cho các chủ thể pháp luật đạt được vị trí bình đẳng nhau trong mọi hoạt động của đời sống xã hội, khắc phục những bất bình đẳng giới trong xã hội từ trước đến nay. Yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật bình đẳng giới nói riêng là một yêu cầu mang tính thường xuyên và liên tục của Nhà nước nhằm bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể nói chung và phụ nữ nói riêng. Vì vậy, hoàn thiện pháp luật về quyền bình đẳng giới là một yêu cầu tất yếu khách quan và cấp bách ở nước ta hiện nay. Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quyền bình đẳng giới cần quán triệt một số quan điểm sau:

Thứ nhất, bảo đảm quyền bình đẳng giới là một trong các nguyên tắc cơ bản trong bảo đảm quyền con người. Nam nữ bình đẳng là một trong những quyền cơ bản của con người. Trong xã hội dân chủ, quyền này luôn đựơc coi trọng. Ở Việt Nam, chủ trương bình đẳng giới được đề ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời. Chính sách bình đẳng giới thật sự là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của chính sách phụ vận qua các thời kỳ phát triển của Nhà nước ta. Quyền bình đẳng giới đã được Hiến định ngay từ Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta (1946). Vị trí, vai trò của nữ giới được xã hội tôn trọng và pháp luật tạo điều kiện thuận lợi để nữ giới phát triển tài năng và tham gia hoạt động chính trị, hoạt động xã hội.

Thứ hai, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách pháp luật. Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng của con người, trong đó có quyền bình đẳng của phụ nữ. Do đó, việc hoàn thiện bộ phận pháp luật này không thể tách ra khỏi việc hoàn thiện hệ thống pháp luật chung. Điều này có nghĩa là hoàn thiện bộ phận pháp luật về bình đẳng giới cũng phải đặt trong mối quan hệ với hoàn thiện pháp luật chung và căn cứ vào những đặc điểm riêng của phụ nữ. Điều này đòi hỏi việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới trước hết phải bắt đầu từ việc rà soát lại toàn bộ các văn bản liên quan đến bình đẳng giới, tập trung trong các văn bản luật. Đồng thời, việc hoàn thiện pháp luật về bình đẳng giới đòi hỏi phải chú trọng mối quan hệ giữa nội dung các quy định của pháp luật với cơ chế pháp lý nhằm bảo đảm nội dung đó được thực hiện trong thực tế. Nội dung của pháp luật về bình đẳng giới phải được thể chế hóa đầy đủ chủ trương và chính sách của Đảng đối với việc phát huy vai trò của phụ nữ trong xã hội, thể hiện đầy đủ các quyền chính trị của phụ nữ. Cùng với nội dung của pháp luật, cơ chế pháp lý cũng phải bảo đảm chuyển tải những nội dung trên bởi các quy định, thủ tục đơn giản, thuận tiện và thể hiện được nguyên tắc bình đẳng và dân chủ của các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật bình đẳng giới.

Thứ ba, củng cố cơ chế bảo đảm quyền bình đẳng giới. Quốc hội cần rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới các văn bản pháp luật phù hợp với đặc điểm đặc thù giới của phụ nữ, đặc điểm riêng của từng ngành, nghề theo hướng: Bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm bớt tình trạng phải chờ quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Đồng thời, để các văn bản pháp luật dễ đi vào cuộc sống, Chính phủ và các cơ quan hành chính ở địa phương tăng cường những nghiên cứu liên quan tới bình đẳng giới nhằm cung cấp cơ sở khoa học vững chắc cho việc hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến bình đẳng giới. Các tổ chức chính trị - xã hội cần mạnh dạn hơn nữa trong quá trình tham gia quản lý nhà nước trong vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng giới.

Về giải pháp hoàn thiện, pháp luật bình đẳng giới cần thể hiện đủ các nội dung chính mà luật bình đẳng giới nêu ra, cụ thể như sau:

- Sửa đổi, bổ sung pháp luật bảo đảm bình đẳng giới trong lĩnh vực kinh tế: Nam, nữ bình đẳng trong tham gia trong việc thành lập doanh nghiệp, tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh, quản lý doanh nghiệp, bình đẳng trong việc tiếp cận thông tin, nguồn vốn, thị trường và nguồn lao động. Điều chỉnh Luật doanh nghiệp cho phù hợp với xu thế chung của đất nước hiện nay.

- Sửa đổi, bổ sung pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị: Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội; nam, nữ bình đẳng trong tham gia xây dựng và thực hiện quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; nam, nữ bình đẳng trong tham gia trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tự ứng cử và được và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo cơ quan, tổ chức.

- Sửa đổi, bổ sung pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới trong lĩnh vực văn hóa, lao động, xã hội, dân sự: Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi tuyển dụng, được đối xử bình đẳng tại nơi làm việc, về việc làm, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động và các điều kiện làm việc khác. Nam, nữ bình đẳng về tiêu chuẩn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm giữ các chức danh trong các ngành, nghề có tiêu chuẩn chức danh. Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng. Nam, nữ bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận, ứng dụng khoa học và công nghệ. Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận các khóa đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và phát minh, sáng chế. Nam, nữ bình đẳng trong việc tham gia các hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao. Nam, nữ bình đẳng trong hưởng thụ văn hóa, tiếp cận và sử dụng các nguồn thông tin. Nam, nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản và sử dụng các dịch vụ y tế. Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn, quyết định sử dụng các biện pháp tránh thai, biện pháp an toàn tình dục, phòng, chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình dục. Phụ nữ nghèo cư trú ở vùng sâu, vùng xa, là đồng bào dân tộc thiểu số, trừ các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, khi sinh con đúng chính sách dân số được hỗ trợ theo quy định của Chính phủ.

- Chế tài pháp luật bình đẳng giới nói riêng cần phải được bổ sung theo hướng nghiêm khắc hơn: Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới” (Điều 26), đây là nguyên tắc thể hiện tính nghiêm khắc của Nhà nước trong việc thực hiện các quy định về bình đẳng giới. Phân biệt đối xử với phụ nữ do rất nhiều chủ thể thực hiện trong khi tham gia các quan hệ pháp luật khác nhau với phụ nữ như cơ quan, đồng nghiệp, cấp trên, cha, anh, chồng, em trai hoặc bất kỳ người nào trong xã hội khi giao tiếp với phụ nữ. Vì vậy, phân biệt đối xử với phụ nữ hình thức thể hiện rất đa dạng, tinh vi, khó nhận biệt. Dưới góc độ pháp luật, sự phân biệt đối xử với phụ nữ là những vi phạm pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ, do đó, người thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vì vậy, chế tài pháp luật nói chung và chế tài pháp luật bình đẳng giới nói riêng cần phải được bổ sung theo hướng nghiêm khắc hơn, đa dạng hơn áp dụng đối với nhiều loại chủ thể vi phạm như hiện nay. Theo đó:

+ Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm dân sự liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới, nên có quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đồng thời, tăng mức bồi thường thiệt hại cho phù hợp với điều kiện kinh tế phát triển, chi phí khắc phục hậu quả, liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới và các hành vi khác có liên quan. Ví dụ: Hành vi thóa mạ, bôi nhọ hình ảnh của phụ nữ, hay hành vi xâm phạm quyền riêng tư, gây bất bình đẳng giới.

+ Sửa đổi, bổ sung trách nhiệm hành chính liên quan đến hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới được quy định trong các điều khoản về hành vi xâm phạm và mức xử phạt cụ thể, nếu chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì bị xử phạt vi phạm hành chính.

+ Sửa đổi, bổ sung chế tài hình sự đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng giới. Chế tài hình sự áp dụng cho những người có hành vi vi phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự xâm hại tới quyền bình đẳng, quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ. Trong xu thế toàn cầu hóa, một loạt hành vi phạm tội mới đã phát sinh như: Rửa tiền; lợi dụng các dịch vụ lao động thực hiện hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em thực hiện nhằm mục đích vô nhân đạo; dụ dỗ, lôi kéo, xúi dục, cưỡng ép người khác ra nước ngoài mua bán bộ phận cơ thể…, vì vậy, việc sửa đổi bổ sung một số chế tài hình sự là rất cần thiết.

Bên cạnh đó, cần coi trọng việc phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng, không chỉ cho phụ nữ, mà còn cho mọi công dân, các công chức nhà nước, nhất là những người có thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật. Nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Thực tế cho thấy, mặc dù có quy định tỷ lệ phần trăm phụ nữ trong các cơ quan dân cử và có hỗ trợ kỹ năng tranh cử, nhưng tỷ lệ phụ nữ đắc cử vẫn không cao, có nơi thậm chí còn rất thấp. Có những nữ ứng cử viên có trình độ cao, có năng lực kinh nghiệm công tác, đạt yêu cầu luật định nhưng vẫn không đắc cử. Chính vì lẽ đó, pháp luật về quyền bình đẳng giới không chỉ cần hoàn thiện, mà còn đòi hỏi phải được các chủ thể trong xã hội, gia đình nhất là các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị nhận thức, quán triệt và thực hiện đầy đủ trong thực tế.

Hoàn thiện tổ chức, hoạt động của cơ quan tư pháp mà trung tâm là Tòa án để xét xử nghiêm minh, kịp thời các tranh chấp, các hành vi xâm phạm quyền bình đẳng giới; đào tạo lại và cập nhật đối với các công chức tư pháp các quan điểm về bình đẳng giới trong pháp luật và trong các hoạt động tư pháp; phát triển các tổ chức nghề nghiệp tư vấn, hỗ trợ cho phụ nữ, nhằm tăng cường ở họ khả năng, năng lực chọn, tiếp cận và khả năng sử dụng có hiệu quả các phương thức, cũng như các cơ quan, tổ chức để bảo vệ tốt nhất quyền và tự do cơ bản của mình. Trước tình hình các xâm phạm về quyền bình đẳng giới diễn ngày càng gia tăng và tính chất ngày càng tinh vi hơn, hoạt động thực thi pháp luật bình đẳng giới đang gặp những khó khăn nhất định. Yêu cầu đặt ra là, cần có một lực lượng chuyên trách đủ khả năng giúp đỡ phụ nữ trong những trường hợp quyền bình đẳng giới bị xâm hại. Lực lượng chuyên trách này cần có mô hình cụ thể, được trang bị quyền lực nhà nước đủ mạnh để trừng trị những hành vi vi xâm phạm quyền bình đẳng giới đồng thời đủ thuyết phục để phụ nữ có thể tự tin tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc dựa vào cơ quan bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ.

ThS. Nguyễn Thanh Hiền
Học viện Phụ nữ Việt Nam

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: