Thứ sáu 06/06/2025 23:59
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm

Trong phạm vi bài viết, tác giả nghiên cứu một số quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm và thực trạng áp dụng, trên cơ sở đó, tác giả đưa ra kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vấn đề này.

1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm

Xử lý vật chứng là một vấn đề phổ biến nhưng cũng khá phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đối với các tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm. Theo Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015), đối tượng của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã là những động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB hoặc Phụ lục II Công ước quốc tế về buôn bán các loại động, thực vật hoang dã nguy cấp - Công ước CITES (Điều 234) và đối tượng của tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm là những loài động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB hoặc thuộc Phụ lục I Công ước CITES
(Điều 244).

Theo điểm d khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), đối với “vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”. Như vậy, biện pháp giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền được áp dụng với một loại vật chứng có tính chất khá đặc biệt, đó là động vật hoang dã. Đây là nội dung hoàn toàn mới của Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 so với Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Sự bổ sung này xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự liên quan đến động vật hoang dã và thực vật ngoại lai, bởi đây là loại vật chứng rất đặc thù, dẫn đến việc xử lý theo các biện pháp thông thường là chưa hợp lý; đồng thời cũng xuất phát từ các cam kết quốc tế của Việt Nam về các vấn đề có liên quan, thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc đấu tranh phòng, chống các tội phạm liên quan đến động vật hoang dã.

Trong pháp luật hình sự, Điều 234 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã. Theo hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP ngày 05/11/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 234 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã và Điều 244 về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm của Bộ luật Hình sự (Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP) thì động vật hoang dã bao gồm các loài động vật thuộc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IIB theo quy định của Chính phủ hoặc Phụ lục II Công ước CITES và các loài động vật rừng thông thường theo quy định của pháp luật, động vật hoang dã nguy cấp thuộc Phụ lục III Công ước CITES. Bên cạnh đó, Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm. Theo khoản 3 Điều 2 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP thì “Động vật nguy cấp, quý, hiếm quy định tại Điều 244 của Bộ luật Hình sự là các loài động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ hoặc Danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm Nhóm IB theo quy định của Chính phủ hoặc Phụ lục I Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp”. Như vậy, khái niệm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm đã được các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn một cách khá chi tiết và có các văn bản quy định danh mục tương đối cụ thể.

Do tính chất đặc biệt của vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm nên nguyên tắc đầu tiên khi xử lý loại vật chứng này là nguyên tắc bảo tồn. Theo hướng dẫn tại Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP, đối với động vật còn sống thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành để trả về tự nhiên, giao cho trung tâm cứu hộ, khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia hoặc giao cho cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật (điểm a). Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật (điểm b). Những vật chứng khác không thuộc hai trường hợp này thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật (điểm c). Bên cạnh Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP, cũng có một số văn bản khác điều chỉnh biện pháp xử lý đối với vật chứng là động vật hoang dã, động vật rừng, động vật nguy cấp, quý, hiếm như Nghị định số 06/2019/NĐ-CP ngày 22/01/2019 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (Nghị định số 06/2019/NĐ-CP) (Điều 10, Điều 32); Thông tư số 29/2019/TT-BNNPTNT ngày 31/12/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định xử lý động vật rừng là tang vật, vật chứng; động vật rừng do tổ chức, cá nhân tự nguyện giao nộp Nhà nước (Điều 6). Đây có thể coi là các quy định về các biện pháp mà cơ quan quản lý chuyên ngành sẽ áp dụng sau khi tiếp nhận vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm từ các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

2. Một số vướng mắc, khó khăn khi xử lý vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm

Thứ nhất, vướng mắc về việc bảo quản và xử lý vật chứng là động vật nguy cấp, quý, hiếm.

Đối với vụ án liên quan đến hành vi vi phạm quy định về động vật nguy cấp, quý, hiếm (Điều 244 Bộ luật Hình sự năm 2015) thì việc bắt quả tang người phạm tội, thu giữ kịp thời vật chứng là động vật nguy cấp, quý, hiếm rất quan trọng và một trong những nhiệm vụ quan trọng trong giải quyết vụ án về động vật nguy cấp, quý, hiếm là phải bảo vệ được các cá thể động vật sống. Tuy nhiên, trên thực tế, việc này không dễ thực hiện vì động vật sống, bộ phận và các sản phẩm từ động vật đòi hỏi phải có biện pháp chăm sóc, bảo quản đặc biệt so với các loại vật chứng khác.

Điển hình như vụ việc[1]: Ngày 04/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh A đã kiểm tra đột xuất và phát hiện tại nhà của Nguyễn Văn H đang nuôi nhốt 14 cá thể hổ đã trưởng thành. Cùng thời gian trên, Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng đã kiểm tra nhà Nguyễn Thị Đ đang nuôi nhốt 03 cá thể hổ tương tự. Sau khi phát hiện 17 cá thể hổ bị nuôi nhốt trái phép, lực lượng chức năng đã gây mê để vận chuyển đến Khu sinh thái để chăm sóc trong thời gian phục vụ công tác điều tra. Tuy nhiên, trong quá trình vận chuyển, 08 trong số 17 cá thể hổ nêu trên đã bị chết chưa rõ nguyên nhân.

Có thể thấy, nếu cơ quan chức năng không thu giữ vật chứng hoặc vật chứng không đảm bảo đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật sẽ không xử lý được các đối tượng vi phạm. Tuy nhiên, việc chưa có cơ sở nuôi nhốt đối với các loài động vật đặc thù hay chưa có nhân viên chăm sóc động vật nguy cấp, quý, hiếm từ giai đoạn tạm giữ cho đến khi có quyết định xử lý vật chứng dẫn đến trường hợp cá thể động vật suy kiệt, chết..., gây khó khăn trong việc giám định hoặc không có cơ sở để xử lý hành vi vi phạm.

Thứ hai, vướng mắc khi xử lý vật chứng là bộ phận hay sản phẩm của động vật hoang dã.

Liên quan đến động vật hoang dã, các văn bản pháp luật còn bỏ sót một loại vật chứng khá quan trọng và phổ biến trong các vụ án, đó là bộ phận, hay sản phẩm của động vật hoang dã như ngà voi, sừng tê giác, hay vảy tê tê[2]… Mặc dù điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định số 06/2019/NĐ-CP quy định: “Mẫu vật các loài Nhóm IA, IB thực hiện theo quy định của pháp luật về quản lý và sử dụng tài sản công; Mẫu vật các loài Nhóm IIA, IIB chuyển giao cho tổ chức khoa học, đào tạo, giáo dục môi trường, bảo tàng chuyên ngành để trưng bày vì mục đích giáo dục bảo tồn; bán đấu giá cho tổ chức, cá nhân nuôi, trồng, chế biến, kinh doanh theo quy định của pháp luật; hoặc tiêu hủy trong trường hợp không thể thực hiện các biện pháp xử lý khác”, tuy nhiên, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 lại không quy định trường hợp này. Ngoài ra, điểm c khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP hướng dẫn: “Vật chứng khác không thuộc trường hợp hướng dẫn tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều này thì tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định của pháp luật”. Theo đó, các bộ phận, sản phẩm của động vật hoang dã được coi là không thuộc điểm a, điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP, do đó sẽ bị tịch thu hoặc tiêu hủy theo quy định pháp luật. Đây cũng là hướng dẫn của Công văn số 206/TANDTC-PC ngày 27/12/2022 của Tòa án nhân dân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong công tác xét xử. Tuy nhiên, quy định của Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP vẫn chưa hoàn toàn triệt để bởi trong trường hợp tịch thu thì việc tịch thu đó để nhằm mục đích gì, để nộp ngân sách nhà nước hay giao lại cho các cơ quan chuyên ngành có thẩm quyền? Thực tiễn xét xử còn chưa thống nhất, ví dụ đối với ngà voi, có Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy[3], có Tòa án tuyên tịch thu sung công[4].

Thứ ba, khó khăn trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có thu giữ động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm.

Quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có thu giữ động vật, sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm và có thể là vật chứng hoặc không phải vật chứng của vụ án sau này. Tuy nhiên, việc thu giữ, bảo quản, xử lý động vật, sản phẩm của động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm trong giai đoạn này chưa có hướng dẫn cụ thể. Tại Điều 90 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định xử lý tài liệu, đồ vật, tài sản tạm giữ trong giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, gây khó khăn trong công tác bảo quản, xử lý. Việc xử lý tài liệu tạm giữ trong giai đoạn này được đề cập tại khoản 1 Điều 13 Thông tư liên tịch số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP ngày 01/6/2020 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định phối hợp thực hiện một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự về quản lý, giải quyết các vụ án, vụ việc tạm đình chỉ, tuy nhiên, quy định này chỉ mới dừng ở những vấn đề chung mà chưa có quy định cụ thể về thủ tục, trình tự để xử lý đồ vật, tài liệu bị tạm giữ trong giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, dẫn đến quá trình áp dụng pháp luật trên thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa thống nhất trong việc xử lý vụ việc. Bởi lẽ, trong giai đoạn xác minh, giải quyết các nguồn tin về tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cũng phải tiến hành các biện pháp theo quy định của pháp luật để thu thập các tài liệu, đồ vật, chứng cứ nhằm xác định có hay không có dấu hiệu của tội phạm. Tuy chưa có quyết định khởi tố vụ án nhưng trong nhiều trường hợp, do tính chất của vật chứng là động vật hoang dã là phải bảo vệ được cá thể động vật sống để tái thả về tự nhiên nhưng trên thực tế việc này không dễ thực hiện vì động vật sống, bộ phận và các sản phẩm từ động vật phải có biện pháp chăm sóc và bảo quản đặc biệt so với các loại vật chứng khác, từ đó đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải nhanh chóng xử lý trong quá trình xác minh, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Về cơ bản, có thể coi việc xử lý vật chứng trong trường hợp không khởi tố vụ án hình sự cũng tương tự như trong trường hợp ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án.

Ngoài ra, khoản 1 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ đề cập đến xử lý vật chứng trong trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án mà không quy định về trường hợp cơ quan có thẩm quyền ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Như vậy, việc tiến hành xử lý vật chứng khi có quyết định không khởi tố vụ án hình sự là cần thiết và hợp lý nhưng lại thiếu cơ sở pháp lý, dẫn đến sự lúng túng nhất định và sự thiếu thống nhất của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3. Một số kiến nghị

Thứ nhất, vật chứng là động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là loại vật chứng rất đa dạng (có thể là động vật sống, đã chết, động vật mang mầm bệnh, động vật ốm, yếu; động vật được phép nuôi, kinh doanh, động vật không được phép nuôi, kinh doanh; sản phẩm động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm cũng có nhiều loại, có loại phải bảo quản trong môi trường đặc biệt như thịt, có sản phẩm có thể bảo quản ở môi trường thông thường như sừng, cao, vảy...) nên thời điểm, hình thức xử lý của từng loại cũng sẽ khác nhau. Xuất phát từ những đặc điểm riêng biệt nêu trên của vật chứng là động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng cần phải nghiên cứu tất cả các văn bản pháp luật về xử lý vật chứng, xử lý tang vật và các quy định về quản lý động vật hoang dã, nguy cấp, quý, hiếm để có những đánh giá, nhận định, quyết định cơ quan chuyên môn có đủ điều kiện để tiếp nhận, quản lý, xử lý vật chứng cho phù hợp với quy định pháp luật.

Mặc dù Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP có đề cập nội dung hướng dẫn việc xử lý vật chứng là sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản nhưng mới chỉ hướng dẫn chung chung là Tòa án tuyên tịch thu hoặc tiêu hủy hoặc giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật. Có thể thấy, trong những năm qua, các cơ quan chức năng của Việt Nam đã bắt giữ, khởi tố nhiều vụ vận chuyển, buôn bán sừng tê giác, ngà voi, vảy đồi mồi và nhiều bộ phận của động vật quý hiếm[5]. Đây được xem là những tài sản có giá trị lớn, tuy nhiên, việc cơ quan có thẩm quyền tuyên tịch thu, bán đấu giá những vật chứng này thì sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng vì việc “hợp pháp hóa” và “thương mại hóa”, đặc biệt là ngà voi hay sừng tê giác là trái với pháp luật quốc tế; thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ và sử dụng trên thị trường. Bên cạnh đó, chi phí lưu giữ, bảo quản các loại vật chứng này sẽ tốn khá nhiều kinh phí. Do đó, hình thức xử lý tịch thu, tiêu hủy vật chứng là sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm là biện pháp xử lý vật chứng cuối cùng, thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế trong việc ngăn chặn, đẩy lùi nạn buôn bán trái pháp luật ngà voi, sừng tê giác và các sản phẩm động vật hoang dã khác, đồng thời là thông điệp trong chiến dịch tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức công chúng không tiêu dùng các sản phẩm động vật hoang dã có nguồn gốc phi pháp.

Vì vậy, tác giả đề xuất sửa đổi điểm b khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 05/2018/NQ-HĐTP như sau: “Vật chứng là cá thể động vật chết hoặc sản phẩm hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm thuộc loại mau hỏng, khó bảo quản thì tiêu hủy. Những vật chứng là sản phẩm động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm có thể bảo quản thì giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật”.

Thứ hai, cần thống nhất việc xử lý vật chứng liên quan đến động vật nguy cấp, quý, hiếm. Theo đó, cần có quy định cho phép các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử có đủ thẩm quyền xử lý vật chứng là động vật nguy cấp, quý, hiếm nhóm IB hoặc Phụ lục I của Công ước CITES khi bị bắt giữ còn sống, linh hoạt trong việc cứu hộ, tái thả về nơi cư trú tự nhiên hoặc tiêu hủy nếu phát hiện có mầm bệnh hoặc chuyển giao cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, cơ sở nghiên cứu nhân giống, gây nuôi động vật hợp pháp, cơ sở giáo dục môi trường, vườn thú... Đồng thời, xác định rõ cơ quan chuyên môn quy định tại điểm d khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để công tác bàn giao vật chứng là động vật nguy cấp, quý, hiếm vừa đúng quy trình, vừa có hiệu quả. Quy định cụ thể danh mục các cơ quan, đơn vị được giao thả lại động vật nguy cấp, quý, hiếm về môi trường tự nhiên; các cơ quan, đơn vị có chức năng cứu hộ động vật nguy cấp, quý, hiếm... để cơ quan tiến hành tố tụng quyết định cụ thể[6].

Thứ ba, theo Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, việc xử lý vật chứng có thể được thực hiện khi vụ án kết thúc hoặc cũng có thể được thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nếu xét thấy cần thiết. Tuy nhiên, như đã phân tích, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không đề cập đến việc xử lý vật chứng trong giai đoạn giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, hay kiến nghị khởi tố cũng như trong trường hợp tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm, tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án. Do đó, để đáp ứng nhu cầu của thực tiễn giải quyết vụ án hình sự, tác giả kiến nghị bổ sung nội dung quy định về việc xử lý vật chứng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự cũng như trong trường hợp tạm đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án, trong đó có quy định về việc xử lý động vật, sản phẩm của động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm.

Lê Bá Đức

Học viên Cao học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

[1]. Kim Long (2021), “Khởi tố, bắt tạm giam bị can nuôi nhốt 14 cá thể hổ trái phép”, Báo Pháp luật Việt Nam, https://baophapluat.vn/khoi-to-bat-tam-giam-bi-can-nuoi-nhot-14-ca-the-ho-trai-phep-post407232.html, truy cập ngày 05/01/2024.

[2]. Trần Văn Độ (2020), “Một số vấn đề về xử lý vật chứng trong các vụ án về các tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật hoang dã, động vật nguy cấp, quý, hiếm”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 12, tr. 03.

[3]. Bản án số 193/2020/HS-ST ngày 10/6/2020 của Tòa án nhân dân TP. N về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta523845t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 05/01/2024.

[4]. Bản án số 20/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Q về Tội vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta223569t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 05/01/2024.

[5]. Phúc Huy (2023), “Nâng cao nhận thức về nguy cơ và rủi ro tài chính từ buôn bán động vật hoang dã”, Báo nhân dân điện tử, https://nhandan.vn/nang-cao-nhan-thuc-ve-nguy-co-va-rui-ro-tai-chinh-tu-buon-ban-dong-vat-hoang-da-post753137.html, truy cập ngày 06/01/2024.

[6]. Phạm Minh Tuyên (2020), “Giám định, xử lý vật chứng, định giá động vật hoang dã, động vật nguy cấp quý hiếm trong tố tụng hình sự - Vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, https://tapchitoaan.vn/public/index.php/giam-dinh-xu-ly-vat-chung-dinh-gia-dong-vat-hoang-da-dong-vat-nguy-cap-quy-hiem-trong-to-tung-hinh-su-vuong-mac-va-kien-nghi-hoan-thien, truy cập ngày 06/01/2024.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 398), tháng 2/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm