Thứ sáu 06/06/2025 16:36
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự

Bài viết tập trung phân tích, làm rõ thực trạng quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự, từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biện pháp ngăn chặn này.

1. Khái quát về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự

Tạm hoãn xuất cảnh là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định tại khoản 1 Điều 109, Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2021 (Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015). Đây là biện pháp ngăn chặn mới, lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong điều tra hình sự, chủ thể có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này là Cơ quan điều tra, trong đó, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra là người có thẩm quyền ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh.

Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự gồm người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can. Đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng trong trường hợp qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ. Đối với bị can, Cơ quan điều tra ra quyết định áp dụng trong trường hợp có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn. Do đó, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh với đối tượng trên trong quá trình giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố và điều tra vụ án hình sự.

Sau khi Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh, quyết định này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước khi thi hành. Sau đó, Cơ quan điều tra gửi quyết định tạm hoãn xuất cảnh đến cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh để tổ chức thực hiện; đồng thời, Cơ quan điều tra có trách nhiệm thông báo quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với bị can theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Về thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự, Cơ quan điều tra không được tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm cũng như không được tạm hoãn xuất cảnh đối với bị can quá thời hạn điều tra. Các đối tượng được hủy bỏ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh khi thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như: Quyết định không khởi tố vụ án hình sự; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra đối với bị can, đình chỉ vụ án đối với bị can.

2. Một số vướng mắc, bất cập về áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự

Thứ nhất, về căn cứ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Điểm a khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về căn cứ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố khi “có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”. Việc quy định phải có đủ căn cứ xác định người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố bị nghi thực hiện tội phạm là không thực sự cần thiết. Bởi lẽ, để trở thành người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thì những người tham gia tố tụng này phải có những dấu hiệu nhất định liên quan đến hành vi phạm tội bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố. Đồng thời, khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định căn cứ chung mà chủ thể điều tra hình sự áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh là khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của đối tượng bị áp dụng “có dấu hiệu bỏ trốn” mà không kèm theo điều kiện “tiêu hủy chứng cứ”. Do đó, việc áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh giữa các Cơ quan điều tra hiện nay chưa có sự thống nhất; một số trường hợp Cơ quan điều tra chưa kịp thời áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố do cho rằng chưa có đủ căn cứ xác định họ bị nghi thực hiện tội phạm, dẫn đến những người tham gia tố tụng này đã lợi dụng để bỏ trốn ra nước ngoài.

Thứ hai, về đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Theo quy định tại Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự có thể bao gồm người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can. Thực tiễn công tác điều tra hình sự cho thấy, trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, kiến nghị khởi tố, điều tra vụ án, Cơ quan điều tra còn phát hiện những đối tượng nghi vấn là đồng phạm với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, với bị can trong vụ án, song Cơ quan điều tra không thể áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh với đối tượng này. Bởi lẽ, hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định đối tượng bị tạm hoãn xuất cảnh với người có nghĩa vụ liên quan đến tố giác, kiến nghị khởi tố, người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Điều này chưa phù hợp với quy định tại Điều 28 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2019, 2023 khi quy định bao gồm cả trường hợp người nước ngoài thuộc trường hợp người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Do đó, diện đối tượng này vẫn có điều kiện xuất cảnh ra nước ngoài để bỏ trốn hoặc tiêu hủy tài liệu, chứng cứ, nhất là khi Cơ quan điều tra chưa thu thập đủ căn cứ áp dụng các biện pháp khác như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ.

Thứ ba, về chủ thể áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Hiện nay, theo quy định tại khoản 2 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chủ thể áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự chỉ gồm Cơ quan điều tra, trong đó, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra là người ra quyết định tạm hoãn xuất cảnh. Điều này chưa hoàn toàn phù hợp với thực tiễn công tác điều tra hình sự. Bởi lẽ, công tác điều tra hình sự còn do các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện theo quy định tại Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình điều tra hình sự, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc quy định các cơ quan này không có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác sẽ gây ra những khó khăn trong quá trình giải quyết tố giác tội phạm cũng như chưa phù hợp với đối tượng bị áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Thứ tư, về thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Theo quy định tại khoản 3 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, chủ thể điều tra hình sự áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh không được quá thời hạn giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Theo đó, đối với trường hợp tạm đình chỉ giải quyết tố giác về tội phạm, chủ thể điều tra không được áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Bởi vì, theo quy định tại khoản 3 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, trong quá trình tạm đình chỉ việc giải quyết đối với tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì chỉ có các hoạt động giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. Điều này đã tạo điều kiện để người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố lợi dụng thực hiện hành vi xuất cảnh ra nước ngoài để bỏ trốn. Bên cạnh đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng chưa có quy định cụ thể về thời hạn chấm dứt tư cách tố tụng đối với người bị tố giác về tội phạm, người bị kiến nghị khởi tố. Theo đó, trong quá trình áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với những đối tượng này của chủ thể điều tra còn có những quan điểm khác nhau về thời hạn áp dụng, dẫn đến việc áp dụng của các chủ thể điều tra còn chưa thống nhất. Cụ thể:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, tư cách tố tụng của người bị tố giác về tội phạm, người bị kiến nghị khởi tố bị chấm dứt khi vụ việc được chủ thể điều tra ra quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Theo quan điểm này, chủ thể điều tra chỉ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác về tội phạm, người bị kiến nghị khởi tố đến khi có các quyết định trên (trừ trường hợp vụ việc có dấu hiệu tội phạm bị tạm đình chỉ việc giải quyết). Do đó, với trường hợp đủ căn cứ khởi tố vụ án hình sự nhưng chưa đủ căn cứ để khởi tố bị can đối với người đã bị tố giác, đã bị kiến nghị khởi tố, chủ thể điều tra không thể tiếp tục áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh đối với họ.

- Quan điểm thứ hai cho rằng, thời hạn tồn tại tư cách tố tụng của người bị tố giác về tội phạm, người bị kiến nghị khởi tố kéo dài cho đến khi vụ án được đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra. Theo quan điểm này, chủ thể điều tra chỉ ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc có dấu hiệu tội phạm, còn đối với người nghi vấn thực hiện hành vi phạm tội nhưng chưa đủ căn cứ khởi tố bị can vẫn là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố về việc họ bị nghi vấn đã thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, chủ thể điều tra vẫn kéo dài thời hạn áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh cho đến khi họ bị khởi tố bị can hoặc vụ án bị tạm đình chỉ điều tra hoặc vụ án bị đình chỉ điều tra.

Thứ năm, về thủ tục thi hành biện pháp tạm hoãn xuất cảnh: Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa quy định về việc Cơ quan điều tra phải giao quyết định tạm hoãn xuất cảnh cho các đối tượng bị áp dụng bao gồm người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị can. Tuy nhiên, đối chiếu với quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng này cho thấy, chỉ có bị can là người tham gia tố tụng được nhận quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, trong đó có quyết định áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, hiện nay, Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chưa đề cập đến việc họ có quyền được nhận các quyết định áp dụng, hủy bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Do đó, quá trình áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh của Cơ quan điều tra còn có những quan điểm khác nhau về việc thông báo hay không thông báo quyết định tạm hoãn xuất cảnh đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biện pháp tạm hoãn xuất cảnh trong điều tra hình sự

Một là, sửa đổi về căn cứ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng, bổ sung cụm từ “hoặc tiêu hủy chứng cứ” trong căn cứ áp dụng thành: “Có thể tạm hoãn xuất cảnh đối với những người sau đây khi có căn cứ xác định việc xuất cảnh của họ có dấu hiệu bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ”. Đồng thời, tại điểm a khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định đối tượng bị áp dụng là “người bị tố giác về tội phạm, người bị kiến nghị khởi tố”, không cần thêm các điều kiện khác. Việc sửa đổi theo hướng trên sẽ giúp chủ thể điều tra dễ dàng xác định được căn cứ áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh, mở rộng diện đối tượng áp dụng, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết đối với tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

Hai là, bổ sung đối tượng áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh tại khoản 1 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Để đáp ứng yêu cầu điều tra hình sự, các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu bổ sung “người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự” là đối tượng bị xem xét áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh khi thỏa mãn các điều kiện chung của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn này. Việc bổ sung đối tượng này sẽ bảo đảm sự phù hợp với quy định tại điểm c khoản 3 Điều 65 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng như bảo đảm sự liên thông, phù hợp với hệ thống pháp luật về xuất, nhập cảnh, trong đó trực tiếp là Điều 28 Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2019 và năm 2023.

Ba là, bổ sung chủ thể áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh bao gồm các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (trừ Đội an ninh Công an cấp huyện). Bởi lẽ, các cơ quan này có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Theo đó, các cơ quan này có thẩm quyền thực hiện các hoạt động, biện pháp điều tra đối với người bị tố giác về tội phạm. Vì vậy, khoản 2 Điều 124 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cần sửa đổi theo hướng: “Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113, điểm b khoản 3 Điều 145 Bộ luật này, thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định tạm hoãn xuất cảnh…”.

Bốn là, ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung, áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh nói riêng. Thời gian tới, liên ngành Tư pháp Trung ương cần tiếp tục tập hợp, nghiên cứu xây dựng, sớm ban hành văn bản hướng dẫn xác định trường hợp cần thiết mà cơ quan có thẩm quyền vẫn tiếp tục được áp dụng biện pháp tạm hoãn xuất cảnh khi tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Đồng thời, văn bản hướng dẫn cần giải thích rõ thời điểm chấm dứt tư cách tố tụng của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Việc ban hành văn bản hướng dẫn giải thích về các vấn đề trên sẽ giúp các chủ thể điều tra hình sự gặp thuận lợi trong quá trình nghiên cứu, tổ chức áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố.

Năm là, sửa đổi quyền, nghĩa vụ của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố quy định tại Điều 57 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, bổ sung quyền của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố tại khoản 1 Điều 57 theo hướng: “Nhận quyết định áp dụng, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế theo quy định của Bộ luật này”, trong đó bao gồm quyết định tạm hoãn xuất cảnh, quyết định hủy bỏ biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Đồng thời, bổ sung nghĩa vụ tại khoản 2 Điều 57 theo hướng: “Chấp hành quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”./.

TS. Sái Ngọc Hưng

Học viện An ninh nhân dân

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 396), tháng 1/2024)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm