Chủ nhật 14/12/2025 04:37
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn

Bài viết đề cập đến các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, đồng thời, phân tích một số vướng mắc, bất cập và đưa ra các kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn là trách nhiệm dân sự, phát sinh giữa các chủ thể với nhau trong đời sống xã hội. Chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, có tác động tiêu cực đến sức khỏe, tính mạng của khách hàng thì phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi và có trách nhiệm phải bồi thường cho những thiệt hại phát sinh. Có thể hiểu, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn là trách nhiệm pháp lý bất lợi đặt ra cho chủ thể là người sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, theo đó, chủ thể là người sản xuất, kinh doanh thực phẩm có hành vi vi phạm các điều kiện về an toàn thực phẩm, gây ra hậu quả tiêu cực đến sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra với người bị thiệt hại.

1. Quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn

Thứ nhất, về nguyên tắc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn mà gây ra thiệt hại cho các chủ thể khác thì sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bên chịu thiệt hại. Khoản 1 Điều 59 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định: “Thiệt hại do vi phạm quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời”. Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng quy định: “Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa có trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp hàng hóa có khuyết tật do mình cung cấp gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của người tiêu dùng, kể cả khi tổ chức, cá nhân đó không biết hoặc không có lỗi trong việc phát sinh khuyết tật, trừ trường hợp được quy định tại Điều 24 của Luật này”. Việc bồi thường thiệt hại sẽ được thực hiện theo quy định tại Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, khi cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm an toàn, gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường, chứ không nhất thiết phải phát sinh từ quan hệ hợp đồng hay ngoài hợp đồng.

Nguyên tắc bồi thường thiệt hại sẽ được thực hiện theo nguyên tắc chung của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, được quy định tại Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ hai, về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

Khi thực phẩm đến tay người tiêu dùng thì thường có sự tham gia của nhiều chủ thể và trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ khâu sản xuất đến khâu cung cấp, phân phối. Chính vì vậy, khi thực phẩm không bảo đảm chất lượng an toàn thì chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường có thể là một hoặc nhiều chủ thể khác nhau. Theo Điều 3 và Điều 6 Luật An toàn thực phẩm năm 2010, trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm là phải bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm. Có thể thấy, Luật này đã quy định rõ rằng, chủ thể phải chịu trách nhiệm về an toàn thực phẩm là các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh thực phẩm, đồng nghĩa với việc, các chủ thể này đều phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu như thực phẩm của mình gây thiệt hại cho những chủ thể khác. Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 đã quy định cho hai chủ thể là nhà sản xuất và nhà kinh doanh thực phẩm ở hai điều khoản khác nhau là điểm l khoản 2 Điều 7 và điểm l khoản 2 Điều 8.

Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường và giải thích thêm về khái niệm “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” tại khoản 2 Điều 3. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng công nhận các cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và không đăng ký kinh doanh cũng có thể là các chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra.

Theo quy định tại Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”.

Thứ ba, về mức bồi thường thiệt hại:

Luật An toàn thực phẩm năm 2010 không có quy định về những thiệt hại được bồi thường mà chỉ quy định chung chung việc bồi thường sẽ được thực hiện theo pháp luật. Về nguyên tắc, khi luật chuyên ngành không có quy định cụ thể về vấn đề này thì sẽ áp dụng quy định của Điều 4 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, đối với những thiệt hại phát sinh ngoài hợp đồng, Điều 608 Bộ luật Dân sự năm 2015 có quy định: “Cá nhân, pháp nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ mà gây thiệt hại cho người tiêu dùng thì phải bồi thường”. Khi đó, những thiệt hại phải bồi thường sẽ là những thiệt hại khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín bị xâm hại. Việc xác định thiệt hại về sức khỏe được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định tại Điều 590 và thiệt hại về tính mạng được quy định tại Điều 591.

Thứ tư, về thời hạn được bồi thường thiệt hại:

Khoản 1 Điều 59 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 quy định bồi thường thiệt hại cần phải “toàn bộ và kịp thời”. Tương tự, Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng có quy định: “Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời”. Điều 593 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định về thời hạn được bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm như người bị thiệt hại mất hoàn toàn khả năng lao động; người bị thiệt hại chết mà còn có người cần được cấp dưỡng.

2. Một số vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn và kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về thời hạn thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn.

Có thể thấy, pháp luật đã có các quy định cụ thể về thời hạn được bồi thường, tuy nhiên, các quy định này đang hướng đến giải quyết bồi thường với những thiệt hại đã xảy ra. Trên thực tế, có nhiều trường hợp, những tác động của thực phẩm không an toàn có thể sẽ không làm cho người tiêu dùng tức thời phát bệnh mà sẽ từ từ tấn công, hủy hoại sức khỏe của người tiêu dùng. Để được bồi thường thiệt hại theo quy định pháp luật, người tiêu dùng phải chứng minh được mình có bị thiệt hại về sức khỏe, tính mạng… Điều này thực sự là vấn đề không đơn giản và tốn rất nhiều thời gian. Người tiêu dùng có quyền khởi kiện, có quyền đòi bồi thường, tuy nhiên họ phải chứng minh được thiệt hại thì Tòa án mới thụ lý. Trên thực tế, rất khó để người bị thiệt hại có thể chứng minh được thiệt hại cụ thể khi thực phẩm không an toàn âm thầm tấn công họ trong khoảng thời gian dài[1]. Bên cạnh đó, có nhiều trường hợp, nhiều bên có trách nhiềm bồi thường cố tình kéo dài thời gian, làm khó nạn nhân để né tránh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Tòa án cần giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trường hợp cần thiết, có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự[2].

Hiện nay, tại Việt Nam chưa có quy định cụ thể về thời hạn giải quyết khiếu nại của các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thực phẩm, dẫn đến có một số trường hợp khách hàng phản ánh về chất lượng sản phẩm và hậu quả tiêu cực đến doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhưng bị “lờ đi”, mất nhiều thời gian để giải quyết.

Trên thực tế, có nhiều vụ việc ở Việt Nam, khi xảy ra thiệt hại về sức khỏe sau khi sử dụng thực phẩm tại cửa hàng và có khiếu nại của khách hàng, các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm luôn “cố tình” trì hoãn việc thực hiện bồi thường thiệt hại, hoặc tự thỏa thuận, “ra giá” bồi thường với người bị thiệt hại nhưng mức bồi thường không tương xứng với các chi phí mà người tiêu dùng bị thiệt hại phải gánh chịu. Điều này vi phạm nghiêm trọng đến nguyên tắc bồi thường thiệt hại là “toàn bộ và kịp thời”, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người tiêu dùng.

Vì vậy, theo tác giả, cần có các điều khoản quy định rõ ràng về thời hạn trả lời khiếu nại của người tiêu dùng và quy định về mức bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng. Nếu bên có trách nhiệm bồi thường không phản hồi kịp thời và bồi thường đầy đủ cho bên bị thiệt hại mà không có lý do rõ ràng thì cần có chế tài xử lý nghiêm minh, ví dụ như yêu cầu cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm đóng cửa, ngừng hoạt động ít nhất 03 tháng, yêu cầu truyền thông vào cuộc, đưa tin về vụ việc này, yêu cầu mức bồi thường cho người bị hại gấp 03 lần so với thực tế… Có như vậy, sẽ nâng cao ý thức chấp hành an toàn thực phẩm của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh thực phẩm ngay từ đầu, tránh trường hợp để đến khi có thiệt hại về sức khỏe và tính mạng từ phía người tiêu dùng mới khắc phục, từ đó, chất lượng an toàn thực phẩm sẽ được bảo đảm hơn.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm an toàn.

Hiện nay, khái niệm về chủ thể sản xuất kinh doanh thực phẩm giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như: Luật An toàn thực phẩm năm 2010 (Điều 3, Điều 6), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 (khoản 2 Điều 3, Điều 23), Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 (khoản 6 Điều 3), Bộ luật Dân sự năm 2015 (Điều 608) đang có sự khác nhau. Trong đó, Điều 23 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường và giải thích thêm về khái niệm “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ” tại khoản 2 Điều 3. Có thể thấy, khái niệm tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa nằm trong khái niệm chủ thể kinh doanh hàng hóa chứ không có sự tách biệt rõ ràng. Trong khi đó, hoạt động sản xuất và kinh doanh là hai khâu tách biệt trong quy trình tạo ra sản phẩm và đưa đến người tiêu dùng. Việc không phân loại rõ chủ thể từ đầu sẽ dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nếu áp dụng Luật này. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 cũng công nhận các cá nhân hoạt động thương mại độc lập, thường xuyên và không đăng ký kinh doanh cũng có thể là các chủ thể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ, có trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi thiệt hại xảy ra. Việc không đăng ký kinh doanh, không có cơ cấu tổ chức chặt chẽ từ đầu có thể khiến các chủ thể này không có ý thức đầy đủ về việc bảo đảm an toàn thực phẩm, trách nhiệm với khách hàng, cũng như gây khó khăn cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý an toàn thực phẩm, điều tra, xác định nguyên nhân khi có thiệt hại về an toàn thực phẩm xảy ra.

Có thể thấy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có sự thống nhất với nhau về cách sử dụng thuật ngữ mô tả chủ thể trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, có thể ảnh hưởng đến việc áp dụng các quy định về trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Hơn nữa, pháp luật cũng chưa có quy định dự liệu tình huống nếu cả ba chủ thể là sản xuất, nhập khẩu và kinh doanh thực phẩm đều có lỗi, dẫn đến thiệt hại cho người tiêu dùng thì ai phải chịu trách nhiệm.

Ngoài các chủ thể trên, theo quan điểm của tác giả, trong một số tình huống cụ thể, các chủ thể kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh về an toàn thực phẩm có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm của Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương đã được quy định cụ thể trong Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm. Nhìn chung, các quy định về phân công, phân cấp quản lý về an toàn thực phẩm đều rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, các cơ quan quản lý đang bị dàn trải ở nhiều bộ, ngành, chưa tạo thành hệ thống kiểm soát toàn diện theo các mối nguy theo chuỗi, dẫn đến hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về an toàn thực phẩm do cả 03 Bộ ban hành độc lập và việc thực thi khác nhau dẫn đến mâu thuẫn, chồng chéo trong xây dựng, triển khai các quy định pháp luật, hậu quả là sự thiếu thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện[3]. Pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cơ quan quản lý có thẩm quyền, ví dụ như trường hợp vẫn còn nhiều thực phẩm, phụ gia chưa có tiêu chuẩn rõ ràng, trong khi chúng có tác động xấu đến sức khỏe, tính mạng người tiêu dùng; hoặc, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm của Việt Nam đang thấp hơn tiêu chuẩn quốc tế, dẫn đến các thực phẩm dù được sản xuất, kinh doanh đúng theo tiêu chuẩn pháp luật Việt Nam nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người tiêu dùng. Rõ ràng, lúc này, trách nhiệm không còn thuộc về bên sản xuất, kinh doanh thực phẩm vì họ đã làm đúng theo quy định pháp luật, mà thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, cần có sự thống nhất về khái niệm chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm thì khi thiệt hại xảy ra mới có thể xác định chính xác chủ thể nào có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại cụ thể là bao nhiêu. Theo đó, chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm là các cá nhân, tổ chức tham gia thực hiện các công việc về sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Bên cạnh đó, cần có quy định pháp luật cụ thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các cơ quan quản lý có thẩm quyền trong các trường hợp nêu trên.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về mức bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không đảm bảo an toàn.

Về mức bồi thường, hiện nay pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể. Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ quy định về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại dựa trên thiệt hại thực tế chứng minh được. Thực tế, việc xác định mức bồi thường dựa trên mức độ thiệt hại và mức sinh hoạt trung bình tại địa phương nơi nạn nhân điều trị, nhằm bảo đảm được quyền và lợi ích của cả bên bị thiệt hại và bên chịu trách nhiệm bồi thường. Tác giả cho rằng, mức bồi thường dựa trên mức độ thiệt hại này chưa đủ sức răn đe các cơ sở sản xuất, kinh doanh, vì trong nhiều trường hợp, mức tiền phạt và tiền bồi thường là quá nhỏ so với khoản tiền lời thu được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh. Có rất nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh tái phạm hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, có thể kể đến là các vụ ngộ độc thực phẩm tràn lan ở các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước, đối tượng bị thiệt hại thường là những người công nhân - thuộc nhóm người tiêu dùng yếu thế. Trong khi đó, Điều 51 Luật Tiêu dùng Đài Loan năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) có thể thấy, Luật này đã mở ra một cơ chế đòi bồi thường ưu tiên cho người tiêu dùng khi mức yêu cầu đòi bồi thường có thể lên tới gấp 03 lần mức thiệt hại thực tế nếu như liên quan tới yếu kém của doanh nghiệp hoặc một hành vi cố ý[4]. Những kinh nghiệm lập pháp và kết quả thực thi quy định của Đài Loan cũng có thể là bài học tham khảo cho Việt Nam trong hoàn thiện pháp luật về tiêu dùng. Vì vậy, theo tác giả, mức bồi thường cho nạn nhân cần được quy định là gấp từ 03 đến 05 lần so với thực tế, như vậy sẽ giúp các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh thực phẩm nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm và trách nhiệm xã hội của họ ngay từ ban đầu. Đồng thời, bù đắp cho những tổn thất về sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của các chủ thể bị thiệt hại.

Thứ tư, bổ sung một số quy định liên quan trong Luật An toàn thực phẩm.

Hiện nay, Luật An toàn thực phẩm năm 2010 chưa có quy định cụ thể về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn gây ra đối với người tiêu dùng. Theo tác giả, cần bổ sung các quy định giải quyết bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng thay vì phải dẫn chiếu đến quy định của các văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo đó, bổ sung một số nội dung như định nghĩa về hành vi sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, thứ tự chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn, trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại do sản xuất, kinh doanh thực phẩm không an toàn…

Thứ năm, xây dựng hệ thống quản lý, kiểm tra chất lượng thực phẩm chặt chẽ.

Trước tiên, xây dựng hệ thống quản lý và kiểm tra chất lượng chặt chẽ góp phần tạo ra thực phẩm an toàn, tăng cường bảo vệ người tiêu dùng, tránh xảy ra những thiệt hại không đáng có. Đồng thời, cần tăng cường hoàn thiện quy trình sản xuất, bảo quản, chế biến an toàn thực phẩm hiệu quả. Bên cạnh đó, xây dựng, củng cố nền tảng truy xuất nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, thực phẩm trên điện thoại để người dân dễ dàng theo dõi thông tin thực phẩm hàng ngày. Trên mỗi bao bì sản phẩm sẽ có mã QR (mã phản hồi nhanh), tích hợp đầy đủ thông tin nguồn gốc thực phẩm. Chỉ cần tải app (ứng dụng) vào điện thoại, truy cập app và quét mã thì các thông tin, thông số của sản phẩm (ngày đóng gói, nguồn gốc, thành phần, cơ sở sản xuất, kinh doanh…) sẽ ngay lập tức hiện lên trên màn hình điện thoại. Ngoài ra, app sẽ có phần báo cáo sản phẩm không an toàn. Người tiêu dùng có thể chụp ảnh làm bằng chứng và đăng tải bình luận công khai, sau đó Cục Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, Bộ Công Thương sẽ xác nhận thông tin. Có mục chấm điểm, đánh giá cho sản phẩm để tăng độ uy tín cho các sản phẩm. Khi xảy ra thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người tiêu dùng khi sử dụng thực phẩm không an toàn, các thông tin, thông số và đánh giá của khách hàng trên app sẽ là một trong các căn cứ quan trọng trong việc yêu cầu bồi thường thiệt hại. Để tạo nền tảng này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ban, ngành, trong đó, Bộ Tư pháp đóng vai trò thẩm định các quy định và điều khoản được tích hợp trong app này.

Hà Trọng Bắc

Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp

Đinh Minh Châu

Trường Đại học Luật Hà Nội, Bộ Tư pháp

[1]. Vov.vn (2016), “Vi phạm an toàn thực phẩm: Khởi kiện, tại sao không?”, http://vov.vn/an-sach-song-khoe/vi-pham-an-toan-thuc-pham-khoi-kien-tai-sao-khong-495869.vov, truy cập ngày 15/8/2023.

[2]. ThS. Luật sư Lê Văn Sua (2017), “Bàn về nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự năm 2015”, https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=2205, truy cập ngày 15/8/2023.

[3]. Nguyễn Thị Vi Bình, (2020) Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực an toàn thực phẩm và thực tiễn tại địa bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn Thạc sĩ Luật học Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 38.

[4]. Nguyễn Trọng Điệp, Nguyễn Tiến Đạt (2019), “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dù̀ng yếu thế trong pháp luật Việt Nam và Đài Loan”, VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 2 tr. 23 - 30.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 390), tháng 10/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: