
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 gồm 08 chương, 63 điều có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025.
Bổ sung quy định về khái niệm “mua bán người”
Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 quy định khái niệm mua bán người như sau: “Mua bán người là hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người nhằm mục đích nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hoặc nhằm mục đích vô nhân đạo khác bằng cách dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác.
Hành vi tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người dưới 18 tuổi nhằm mục đích nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể người hoặc nhằm mục đích vô nhân đạo khác cũng được coi là mua bán người ngay cả khi không dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác”.
Đây là một trong những nội dung quan trọng của Luật nhằm nội luật hóa đầy đủ các quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, cụ thể là Nghị định thư về phòng ngừa, ngăn chặn và trừng phạt nạn buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em của Liên hợp quốc (Nghị định thư Palermo), Công ước ASEAN về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (Công ước ACTIP), bảo đảm tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống mua bán người.
Theo đó, khái niệm mua bán người đã kết hợp đủ 03 yếu tố (hành vi, mục đích, thủ đoạn). Trong đó, hành vi gồm: Tuyển mộ, vận chuyển, chứa chấp, chuyển giao hoặc tiếp nhận người; mục đích gồm: Nhận tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác, bóc lột tình dục, cưỡng bức lao động, lấy bộ phận cơ thể hoặc mục đích vô nhân đạo khác; thủ đoạn gồm: Sử dụng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lừa gạt hoặc thủ đoạn khác. Quy định này thể hiện những hành vi, mục đích và thủ đoạn đặc trưng nhất của mua bán người. Khái niệm mua bán người trong Luật mở rộng hơn một số nội dung so với Bộ luật Hình sự và pháp luật hiện hành sẽ làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự nhằm xử lý hiệu quả hơn loại tội phạm này và nâng cao hơn nữa nhận thức của người dân về phòng, chống mua bán người.
Nghiêm cấm hành vi thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai
Tại khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã bổ sung quy định cấm hành vi thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai. Theo quy định của Bộ luật Dân sự, trong một số trường hợp quyền dân sự chỉ có thể được xác lập sau khi một người được sinh ra và còn sống; theo quy định của Bộ luật Hình sự thì việc phạm tội đối với phụ nữ mang thai chỉ bị coi là tình tiết tăng nặng mà không bị coi là phạm tội đối với nhiều người. Như vậy, về mặt pháp lý chỉ được coi là người khi được sinh ra và còn sống. Theo y học, bào thai cũng chưa được xác định là con người. Do đó, việc quy định mua bán bào thai trong khái niệm mua bán người là không phù hợp. Tuy nhiên, thời gian qua, đã xuất hiện tình trạng mua bán bào thai nhằm mục đích mua bán trẻ sau khi được sinh ra (có những trường hợp phụ nữ mang thai đã thỏa thuận xuất cảnh ra nước ngoài, sau đó sinh và giao con cho người khác để lấy tiền, vật chất để về nước). Đây là thực tế rất đáng lo ngại, nhưng việc xử lý hành vi này lại chưa được pháp luật điều chỉnh. Việc thỏa thuận mua bán này thực chất là tiền đề của hành vi mua bán người (mua bán người từ giai đoạn còn đang là bào thai). Trước yêu cầu nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người từ sớm, từ xa; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về xử lý hành vi xâm phạm liên quan đến phụ nữ, trẻ em, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã quy định hành vi nghiêm cấm “thỏa thuận mua bán người từ khi còn đang là bào thai”.
Tại khoản 5 Điều 4 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã bổ sung nguyên tắc nạn nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là hệ quả trực tiếp của hành vi mua bán người có thể không bị xử lý hành chính hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này. Trên thực tế nhiều nạn nhân trong quá trình bị mua bán đã phải thực hiện hành vi vi phạm pháp luật và theo quy định của pháp luật hiện hành thì các hành vi nêu trên phải bị xử lý; điều này là chưa thực sự bảo đảm được tính nhân đạo và chưa phù hợp với Công ước ACTIP trong việc bảo vệ nạn nhân. Do đó, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã bổ sung nguyên tắc: “Tùy từng trường hợp cụ thể và theo quy định của pháp luật có liên quan, nạn nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là hệ quả trực tiếp của hành vi mua bán người có thể không bị xử lý hành chính hoặc không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi này” tại khoản 5 Điều 4.
Nguyên tắc này bảo đảm để cơ quan có thẩm quyền cân nhắc, xem xét, quyết định thận trọng theo từng trường hợp để xử lý hành vi vi phạm pháp luật của nạn nhân cũng như thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, bảo đảm phù hợp với Công ước ACTIP.
Bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 có điểm mới quan trọng, đó là bổ sung quy định về chế độ hỗ trợ đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng.
Thực tiễn thi hành Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 trong những năm qua cho thấy một trong những vướng mắc lớn là khi những người có dấu hiệu bị mua bán đến trình báo với các cơ quan chức năng về việc bị mua bán, khi các cơ quan chức năng tiếp nhận, giải quyết rất cần được hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu cơ bản như ăn, ở, mặc, đi lại, y tế, tâm lý, phiên dịch… Tuy nhiên, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011 chưa có quy định để các cơ quan có thẩm quyền triển khai thực hiện việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng mà chỉ khi họ được xác định là nạn nhân thì mới được hỗ trợ các nhu cầu thiết yếu nêu trên. Do vậy, việc bổ sung chế định này trong Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã lấp được khoảng trống về việc hỗ trợ nhu cầu thiết yếu cho đối tượng này, đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để góp phần nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống mua bán người trong thời gian tới.
Với nguyên tắc lấy nạn nhân, người đang trong quá trình xác định nạn nhân làm trung tâm, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 có 01 chương quy định về hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân quy định về đối tượng và chế độ hỗ trợ; cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ; cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân. Đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng, Luật đã quy định chế độ hỗ trợ gồm: Hỗ trợ về nhu cầu thiết yếu; hỗ trợ y tế; hỗ trợ phiên dịch; hỗ trợ pháp luật; trợ giúp pháp lý; hỗ trợ chi phí đi lại; hỗ trợ tâm lý.
Bổ sung những quy định nâng cao chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân
Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 đã bổ sung và nâng cao chế độ hỗ trợ cho đối tượng này để phù hợp với thực tiễn hiện nay và điều kiện kinh tế của đất nước ta trong thời gian tới, với các chế độ hỗ trợ như: (i) Hỗ trợ các khoản chi phí đi lại và tiền ăn để trở về nơi cư trú (Luật hiện hành quy định chỉ nạn nhân không có khả năng chi trả mới được hỗ trợ); (ii) Được hỗ trợ chi phí khám sức khỏe khi tiếp nhận, được sơ cứu, cấp cứu nếu bị thương tích, tổn hại sức khỏe; trong thời gian lưu trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân nếu cần được chăm sóc để phục hồi sức khỏe thì được hỗ trợ chi phí khám bệnh, chữa bệnh; chưa có bảo hiểm y tế thì được hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế trong năm đầu tiên (Luật hiện hành quy định chỉ nạn nhân trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân mới được hỗ trợ); (iii) Mở rộng đối tượng được hỗ trợ để ổn định tâm lý đối với trường hợp nạn nhân không lưu trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân (Luật hiện hành quy định chỉ nạn nhân trong thời gian lưu trú tại cơ sở bảo trợ xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân mới được hỗ trợ); (iv) Được hỗ trợ pháp luật bằng hình thức tư vấn để phòng ngừa bị mua bán trở lại, tư vấn làm thủ tục đăng ký cư trú, hộ tịch, làm thẻ căn cước, nhận chế độ hỗ trợ; mở rộng đối tượng và nội dung được trợ giúp pháp lý; (v) Mở rộng đối tượng khi trở về nơi cư trú được xem xét hỗ trợ học nghề, tạo điều kiện để có việc làm, ổn định cuộc sống (Luật hiện hành quy định chỉ nạn nhân thuộc hộ nghèo mới được hỗ trợ); (vi) Mở rộng đối tượng nạn nhân khi trở về nơi cư trú được hỗ trợ một lần tiền trợ cấp khó khăn ban đầu (Luật hiện hành quy định chỉ nạn nhân thuộc hộ nghèo mới được hỗ trợ); (vii) Được hỗ trợ chi phí phiên dịch trong thời gian lưu trú tại cơ sở trợ giúp xã hội hoặc cơ sở hỗ trợ nạn nhân (Luật hiện hành không quy định nạn nhân được hỗ trợ chế độ này). Đồng thời, Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 sửa đổi, bổ sung quy định về cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ; cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân bảo đảm phân cấp, phân quyền cụ thể cho các cơ quan chức năng.
Việc sửa đổi, bổ sung quy định theo hướng nâng cao chế độ hỗ trợ nạn nhân nhằm khắc phục những bất cập hiện nay, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam thời gian tới, thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam liên quan đến bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền của nạn nhân bị mua bán; cụ thể hóa nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; lấy nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân làm trung tâm; bảo đảm an sinh xã hội cho nạn nhân sẽ góp phần ổn định xã hội.
Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng được trợ giúp pháp lý
Nội dung về trợ giúp pháp lý được quy định tại Điều 37, Điều 41, Điều 46, Điều 47, Điều 55, Điều 61 Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024.
Theo Điều 37 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 quy định về đối tượng và chế độ hỗ trợ, trong đó có trợ giúp pháp lý (tại điểm đ khoản 1), áp dụng cho các đối tượng: (i) Người dưới 18 tuổi đi cùng nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam; (ii) Người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam và người dưới 18 tuổi đi cùng ở trong nước; (iii) Nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam thì tùy từng trường hợp được hưởng.
Điều 41 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 quy định về hỗ trợ pháp luật, trợ giúp pháp lý quy định: Nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân và người dưới 18 tuổi đi cùng được trợ giúp pháp lý bằng các hình thức theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý đối với nội dung có liên quan đến vụ việc, vụ án mua bán người.
Điều 46 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 quy định về các cơ quan, tổ chức thực hiện việc hỗ trợ, trong đó có Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý (khoản 6).
Điều 47 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 quy định về cơ sở trợ giúp xã hội, cơ sở hỗ trợ nạn nhân quy định về nhiệm vụ của các cơ sở này, trong đó có nhiệm vụ phối hợp với Trung tâm Trợ giúp pháp lý để thực hiện trợ giúp pháp lý (điểm g khoản 1).
Điều 55 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 quy định về trách nhiệm của Bộ Tư pháp, trong đó có việc quản lý, hướng dẫn Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và các tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý (khoản 3).
Điều 61 Luật Phòng chống mua bán người năm 2024 bổ sung bổ sung khoản 6a vào sau khoản 6 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017: “6a. Nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân của hành vi mua bán người và người dưới 18 tuổi đi cùng theo quy định của Luật Phòng, chống mua bán người”; đồng thời, bãi bỏ điểm g khoản 7 Điều 7 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2027.
Quy định cụ thể hơn về vấn đề này, ngày 29/6/2025 Chính phủ ban hành Nghị định số 162/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống mua bán người (Nghị định số 162/2025/NĐ-CP). Theo Điều 20 Nghị định số 162/2025/NĐ-CP quy định về hỗ trợ pháp luật, nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam và người dưới 18 tuổi đi cùng; người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam và người dưới 18 tuổi đi cùng; nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam được cung cấp thông tin về quyền và nghĩa vụ của nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân; được hướng dẫn các biện pháp phòng, chống mua bán người, hình thức di cư an toàn, việc làm an toàn để phòng ngừa bị mua bán trở lại; trình tự, thủ tục đề nghị trợ giúp pháp lý; các quy định về chế độ hỗ trợ, các dịch vụ tái hòa nhập; tư vấn làm thủ tục đăng ký cư trú, hộ tịch, làm thẻ căn cước, nhận chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân
Điều 21 Nghị định số 162/2025/NĐ-CP đã quy định rõ đối tượng và chế độ trợ giúp pháp lý. Theo đó, nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam và người dưới 18 tuổi đi cùng; người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là công dân Việt Nam, người không quốc tịch thường trú ở Việt Nam và người dưới 18 tuổi đi cùng ở trong nước; nạn nhân, người đang trong quá trình xác định là nạn nhân là người nước ngoài bị mua bán tại Việt Nam được trợ giúp pháp lý đối với nội dung có liên quan đến vụ việc, vụ án mua bán người thông qua các hình thức tư vấn pháp luật; tham gia tố tụng; đại diện ngoài tố tụng và các hình thức trợ giúp pháp lý khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được hỗ trợ theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý. Việc trợ giúp pháp lý được thực hiện dựa trên nhu cầu, tình trạng thực tế của đối tượng và thời gian lưu trú tại Việt Nam. Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước, tổ chức tham gia trợ giúp pháp lý có trách nhiệm thực hiện trợ giúp pháp lý. Trình tự, thủ tục trợ giúp pháp lý được thực hiện theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Với các nội dung trợ giúp pháp lý được quy định tại Luật Phòng, chống mua bán người năm 2024 cho thấy, Luật đã mở rộng diện người được trợ giúp pháp lý miễn phí so với quy định của Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017. Điều này đáp ứng thực tiễn nhu cầu trợ giúp pháp lý của nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương, không có khả năng tiếp cận dịch vụ pháp lý có thu phí, kịp thời bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ có vướng mắc về pháp luật, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân, tạo niềm tin của người dân về các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước.