Thứ ba 17/06/2025 10:52
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình - Nghiên cứu so sánh Việt Nam và Hàn Quốc

Quan hệ hôn nhân và gia đình là quan hệ nền tảng và quan trọng nhất trong các mối quan hệ xã hội. Bởi đó là mối quan hệ đầu tiên, gần gũi nhất của mỗi con người và là cơ sở để xã hội hình thành và phát triển. Thông qua hôn nhân và gia đình, con người thực hiện các chức năng duy trì nòi giống, giáo dục và hình thành nhân cách. Do đó, việc phát triển các mối quan hệ hôn nhân và gia đình luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia.

Theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê làm chủ biên xuất bản năm 1992 thì: “Hôn nhân là việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng”. Xét trên quan niệm xã hội, “hôn nhân” có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất, là chỉ một cặp nam nữ sống với nhau, sinh hoạt với nhau và xây dựng gia đình trong một cái khung của hôn thú; nghĩa thứ hai, là cá nhân một nam, một nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng dưới sự công nhận của pháp luật.

Về mặt bản chất, hôn nhân là một động thái mang tính nhân loại, chỉ có trong đời sống xã hội của loài người và chỉ xuất hiện ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định. Đầu tiên, hôn nhân là một động thái xã hội hóa hoạt động ghép đôi của động vật hoang dã. Trải qua tiến trình của lịch sử, những tiến bộ của cấu trúc xã hội, quan niệm xã hội, dần dần hình thành những quan điểm chuẩn mực đạo đức, những quy định, những lễ nghi… và cuối cùng, nó được định hình trong các chế định, các quy ước tồn tại như những văn bản dưới luật và đỉnh cao của nó là sự quy tụ vào những điều khoản, hệ thống pháp luật của một quốc gia. Thông qua hôn nhân, gia đình được hình thành và trở thành một thực thể xã hội được công nhận, được Nhà nước bảo hộ, trước hết là trên nền tảng của hệ thống quan niệm đạo đức xã hội, phong tục, tập quán, văn hóa của cộng đồng dân tộc và cuối cùng, quan trọng nhất chính là hệ thống pháp luật của quốc gia.

Hiện nay, pháp luật là công cụ điều chỉnh xã hội rất quan trọng. Tuy nhiên, nếu chỉ sử dụng các quy định của pháp luật để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội sẽ không đạt được hiệu quả cao nhất do có những vấn đề pháp luật không điều chỉnh tới hoặc không thể điều chỉnh. Đặc biệt là những mối quan hệ được thiết lập dựa trên cơ sở tình cảm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Trong khi đó, đạo đức có thể chi phối và điều chỉnh tất cả các mối quan hệ xã hội. Do vậy, việc kết hợp pháp luật và đạo đức trong điều chỉnh mối quan hệ hôn nhân và gia đình sẽ hỗ trợ và tăng cường thêm hiệu quả của pháp luật.

1. Mối quan hệ pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình

Pháp luật xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử loài người, tuy nhiên qua các thời kỳ lịch sử, do điều kiện kinh tế, năng lực nhận thức của con người... khác nhau nên pháp luật và vai trò của pháp luật trong từng thời kỳ cũng khác nhau. Ngày nay, pháp luật có vai trò rất quan trọng và không thể thiếu trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội.

Theo lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, pháp luật là một hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo định hướng, mục tiêu cụ thể. Trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, pháp luật đi sâu điều chỉnh hai nhóm quan hệ là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản. Quan hệ nhân thân là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về những lợi ích nhân thân như quan hệ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái...; Quan hệ tài sản là những quan hệ xã hội phát sinh giữa các thành viên trong gia đình về lợi ích tài sản như quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, giữa các thành viên khác trong gia đình, quan hệ sở hữu chung của vợ chồng...

Cùng với pháp luật, đạo đức cũng được hình thành để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, trong đó các quan hệ hôn nhân và gia đình. Theo định nghĩa trong Từ điển Hán - Việt của Giáo sư Đào Duy Anh, thì “đạo” là nguyên lý tự nhiên, được vào lòng người là “đức”[1]. Như vậy, hiểu theo nghĩa đầu tiên của định nghĩa thì đạo đức chính là nguyên lý của tự nhiên và được lòng của con người, công chúng. Nó bao hàm theo hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là một quy luật mang tính tự nhiên và nghĩa thứ hai là một sự thu nhận mang tính nhân sinh của con người.

Đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình. Bởi lẽ, các mối quan hệ hôn nhân và gia đình chủ yếu được thiết lập dựa trên cơ sở tình cảm và huyết thống, đó là lĩnh vực điều chỉnh sở trường của đạo đức. Hơn nữa, đạo đức gia đình hình thành nên các khôn mẫu, chuẩn mực hành vi ứng xử của các thành viên trong gia đình, đảm bảo trật tự và sự ổn định của các thành viên trong gia đình. Trong khi đó, pháp luật lại không thể điều chỉnh các mối quan hệ được thiết lập trên cơ sở tình cảm và không điều chỉnh những hành vi ứng xử cụ thể của các thành viên trong gia đình. Có thể thấy, sự suy thoái đạo đức gia đình là một trong những nguyên nhân chính khiến tình hình vi phạm pháp luật gia tăng và kéo theo đó là sự bất ổn của xã hội.

Về sự tương tác giữa pháp luật và đạo đức trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân và gia đình. Cũng như các mối quan hệ khác, các quan hệ hôn nhân và gia đình được điều chỉnh bởi nhiều công cụ khác nhau như pháp luật, đạo đức, phong tục, tập quán, tôn giáo… Các công cụ này có mối quan hệ tác động qua lại với nhau trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong đó, pháp luật và đạo đức nổi lên là hai công cụ quan trọng nhất và có mối quan hệ mật thiết, hỗ trợ nhau trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội.

Thứ nhất, trong mối quan hệ này, đạo đức là cơ sở của pháp luật.

Ngay khi chưa có pháp luật, những chuẩn mực đạo đức đã được hình thành để điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân và gia đình như một cách tất yếu, giải quyết những yêu cầu của đời sống xã hội và được tất cả xã hội thừa nhận, đảm bảo lợi ích chung của cộng đồng. Nhà nước thừa nhận các giá trị đạo đức và cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật với tính chất bắt buộc chung cho tất cả mọi người. Có thể nói, bất kỳ một hệ thống pháp luật nào cũng được xây dựng, tồn tại và phát triển dựa trên một nền tảng đạo đức nhất định. Bởi lẽ, pháp luật được xây dựng trên nền tảng của đạo đức là pháp luật phù hợp với đời sống thực tiễn, được xã hội chấp nhận và đảm bảo lợi ích chung của mọi người, phù hợp với sự phát triển xã hội.

Thứ hai, đạo đức là động cơ tốt để thúc đẩy thực hiện pháp luật.

Pháp luật hiện nay được phủ sóng rộng rãi và có nhiều ưu điểm trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội với những quy định mang tính xử sự chung, tính cưỡng chế của Nhà nước. Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật còn phụ thuộc vào ý thức thực hiện pháp luật của người dân. Qua các chuẩn mực đạo đức, cá nhân sẽ nâng cao ý thức, tinh thần tự giác và trách nhiệm của bản thân đối với mỗi hành vi.

Luật Hôn nhân và gia đình được xây dựng dựa trên nền tảng là những chuẩn mực đạo đức sẽ giúp người dân dễ dàng thực hiện các quy định của pháp luật dù có thể không hiểu biết đầy đủ các quy định, bởi trên thực tế, mọi người đã quá quen thuộc với những chuẩn mực đạo đức gia đình và luôn thực hiện các chuẩn mực hành vi đó mỗi ngày. Những chuẩn mực đạo đức gia đình được các thành viên trong gia đình, xã hội coi trọng thì việc thực hiện các quy định của pháp luật sẽ nghiêm chỉnh hơn. Ngược lại, khi việc giáo dục đạo đức gia đình không được quan tâm và xuống cấp sẽ dẫn đến ý thức đạo đức không cao và việc thực hiện pháp luật sẽ không nghiêm chỉnh, không chỉ là pháp luật hôn nhân và gia đình mà trong cả các lĩnh vực pháp luật khác. Đặc biệt, khi đạo đức gia đình trở thành phong tục, tập quán của một cộng đồng, quốc gia và dân tộc, nó sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc thực hiện pháp luật. Nếu pháp luật phù hợp với các chuẩn mực đạo đức, nó sẽ thúc đẩy mạnh mẽ việc thực hiện pháp luật và ngược lại, nó sẽ cản trở việc thực hiện pháp luật.

Thứ ba, pháp luật phản ánh những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, chuẩn mực đạo đức

Ngay từ khi gia đình được hình thành, những mối quan hệ trong gia đình đã được điều chỉnh bởi các chuẩn mực đạo đức. Vì vậy, mặc dù không có pháp luật, gia đình thời kỳ này vẫn giữ được sự ổn định. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị luôn tìm mọi cách để duy trì sự thống trị của giai cấp mình. Thông qua đạo đức, giai cấp thống trị truyền bá, áp đặt hệ tư tưởng của giai cấp mình buộc các giai cấp khác phải phục tùng, tuân theo, thậm chí là nghĩ theo những tư tưởng đó và cho đó là tất yếu, là khuôn mẫu, là nguyên lý tự nhiên phải thế.

Để đảm bảo cho những chuẩn mực đạo đức, hệ tư tưởng của mình có thể đi vào thực tế, giai cấp thống trị thông qua quyền lực của Nhà nước để cụ thể hóa các quan điểm đạo đức thành pháp luật, sử dụng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước để pháp luật được thực hiện. Có thể thấy, pháp luật của bất kỳ quốc gia nào, ở thời kỳ nào cũng được xây dựng dựa trên một nền tảng đạo đức nhất định. Thực tế cho thấy, pháp luật phong kiến của Việt Nam, Hàn Quốc và các nước Á Đông thể hiện quan điểm đạo đức của Nho giáo, Phật giáo; pháp luật phong kiến của các nước Tây Âu thể hiện quan điểm đạo đức của Thiên chúa giáo; pháp luật của các quốc gia theo Đạo hồi là quan điểm đạo đức Hồi giáo;... Do đó, pháp luật hôn nhân và gia đình của một quốc gia phản ánh tư tưởng quan điểm, chuẩn mực đạo đức hôn nhân và gia đình của quốc gia đó.

Thứ tư, pháp luật giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp; tiếp nhận, hình thành những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ; đồng thời loại bỏ những chuẩn mực đạo đức lạc hậu, chuẩn mực đạo đức không chính thống, không phù hợp

Hiện nay, khi hôn nhân và gia đình đã mở rộng thành một vấn đề mang tính toàn cầu, các quyền con người, quyền công dân được đề cao thì hầu hết các quốc gia đều hướng đến xây dựng một chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc. Pháp luật ghi nhận và phát huy những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của quốc gia, những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ phù hợp với sự phát triển của xã hội, đồng thời loại bỏ những chuẩn mực đạo đức lạc hậu ảnh hưởng đến các quyền tự do, bình đẳng của con người và những chuẩn mực đạo đức không chính thống và không phù hợp.

Việt Nam và Hàn Quốc đều là những quốc gia phương Đông có nhiều nét văn hóa tương đồng. Quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế là một thách thức lớn cho các chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp khi có sự giao thoa về văn hóa giữa các quốc gia, sự du nhập của các văn hóa ngoại lai. Do đó, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm bảo cho các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp được phát huy, tiếp nhận có chọn lọc những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, phù hợp với sự phát triển, đồng thời ngăn chặn, loại bỏ những chuẩn mực đạo đức lạc hậu, không phù hợp.

Xã hội ngày càng phát triển, pháp luật càng phổ biến và có một vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Dù vậy, pháp luật không phải công cụ vạn năng mà nó cũng có những hạn chế. Việc quá đề cao hay xem nhẹ pháp luật đều có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc quản lý xã hội, đồng thời không phát huy được tối đa vai trò, giá trị của pháp luật. Cùng với pháp luật, đạo đức cũng có những vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và có thể hỗ trợ, bổ sung cho những hạn chế của pháp luật. Do đó, trong quá trình điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân và gia đình cần phải có sự kết hợp chặt chẽ và linh hoạt mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức.

2. Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình ở Việt Nam và Hàn Quốc hiện nay

Ở Việt Nam, pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam đã ghi nhận những chuẩn mực đạo đức gia đình truyền thống và các chuẩn mực đạo đức tiến bộ nhằm xây dựng chế hộ hôn nhân và gia đình tiến bộ. Hiện nay, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã ghi nhận rất nhiều những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp, những chuẩn mực đạo đức tiến bộ phù hợp với các quyền con người. Tương tự, Luật Gia đình Hàn Quốc cũng ghi nhận những chuẩn mực đạo đức tiến bộ, phù hợp. Qua nghiên cứu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam và các quy định của Luật Gia đình Hàn Quốc có thể nhận thấy những điểm tương đồng trong việc ghi nhận những chuẩn mực đạo đức.

Một là, pháp luật ghi nhận chế độ hôn nhân tự do, tự nguyện, một vợ một chồng. Đây là chế độ hôn nhân tiến bộ trên thế giới, đảm bảo các quyền tự do, bình đẳng của cả nam và nữ. Tất cả mọi người đủ các điều kiện kết hôn theo quy định đều có quyền được tự do, tự nguyện lựa chọn bạn đời, bất kỳ ai cũng không được ngăn cấm, cản trở việc kết hôn.

Hai là, trong quan hệ vợ chồng, pháp luật ghi nhận những chuẩn mực đạo đức tiến bộ như vợ, chồng bình đẳng với nhau về mọi mặt. Với sự ghi nhận này, vai trò, địa vị của người phụ nữ đã được nâng cao; họ có các quyền và nghĩa vụ ngang bằng với người đàn ông. Đây là xu thế phát triển chung của thế giới về việc đảm bảo các quyền con người trong đó có quyền bình đẳng giới. Bên cạnh đó, pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam cũng ghi nhận và phát huy chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp trong quan hệ vợ chồng, đó là vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

Ba là, trong quan hệ giữa cha mẹ với con cái, pháp luật cũng ghi nhận những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp đó là cha mẹ thương yêu, quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ con cái; con cái phải hiếu kính, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Đây là những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp trong gia đình Việt Nam và Hàn Quốc do ảnh hưởng của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo.

Bốn là, pháp luật cũng ghi nhận những chuẩn mực đạo đức trong quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình, đó là sự yêu thương, chăm sóc, giúp đỡ nhau… nó thể hiện những đạo đức tốt đẹp trong tình cảm gia đình.

Năm là, pháp luật về hôn nhân và gia đình cũng như các chính sách của Việt Nam hay Hàn Quốc đều hướng tới bảo vệ, giúp đỡ các thành viên là phụ nữ, người già, trẻ em, những người mất năng lực hành vi. Đó là những người cần được chăm sóc, giúp đỡ và bảo vệ. Nó thể hiện truyền thống, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp, nhân văn của Việt Nam và Hàn Quốc, là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về văn hóa.

Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức cũng được thể hiện trong việc áp dụng các quy định của pháp luật. Đó là việc cụ thể hóa những quy định, những chính sách của nhà nước trong thực tiễn, đảm bảo các giá trị đạo đức mà pháp luật ghi nhận được thực thi trên thực tiễn. Trong quá trình áp dụng pháp luật, thẩm phán Hàn Quốc có đủ thẩm quyền để đưa phán quyết dựa trên những chuẩn mực đạo đức nếu pháp luật không được cụ thể. Ở Việt Nam, có nhiều vụ việc đã được thẩm phán căn cứ tinh thần của Luật Hôn nhân và gia đình, vào các chuẩn mực đạo đức để giải quyết và một số vụ việc tiêu biểu đã được ghi nhận thành án lệ để giải quyết những vụ việc tương tự.

Những chuẩn mực đạo đức gia đình đã trở thành nét đẹp văn hóa, bản sắc riêng của Việt Nam và Hàn Quốc trong thời kỳ hộ nhập. Người dân Việt Nam và Hàn Quốc rất coi trọng các giá trị, chuẩn mực đạo đức gia đình, thậm chí còn hơn cả các quy định của pháp luật. Vì vậy, pháp luật hôn nhân và gia đình được xây dựng dựa trên nền tảng là các chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp sẽ nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật và phù hợp với sự phát triển của xã hội.

3. Kết luận

Có thể thấy, pháp luật và đạo đức không điều chỉnh các mối quan hệ xã hội một cách độc lập mà luôn có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau. Trong các quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình của Việt Nam và Hàn Quốc đều đã ghi nhận những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp, những chuẩn mực đạo đức mới tiến bộ. Trong các hoạt động áp dụng pháp luật và thực hiện pháp luật của cá nhân cũng dễ dàng nhận thấy được yếu tố đạo đức. Tuy nhiên, để mối quan hệ pháp luật và đạo đức thực sự có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh các mối quan hệ hôn nhân và gia đình thì cần phải được nghiên cứu một cách hệ thống và có sự vận dụng linh hoạt trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.

Lee Seon Hee
Nghiên cứu sinh tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội



Tài liệu tham khảo:
  1. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014.
  2. Luật Gia đình Hàn Quốc năm 2005;
  3. Luật Hỗ trợ gia đình đa văn hóa Hàn Quốc năm 2007;
  4. GS.TS Hoàng Thị Kim Quế, Những vấn đề hôm nay của pháp luật và đạo đức, Tạp chí Luật học số 7/2006.
  5. TS. Nguyễn Văn Năm, Quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, 2012.
  6. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1997.
  7. Nguyễn Khắc Viện (chủ biên), Từ điển Xã hội học, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1994


[1] Đào Duy Anh, Từ điển Hán Việt, Nxb. Minh Tân số 7, Rue Guériégaud, Paris, 1949.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm