Thứ bảy 14/06/2025 02:00
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số giải pháp giải quyết tình trạng hôn nhân cận huyết trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về điều kiện kết hôn, thực trạng hôn nhân cận huyết trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên, tác giả đề xuất một số giải pháp để giải quyết tình trạng này trên thực tiễn.

1. Quy định pháp luật về điều kiện kết hôn

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định chế độ hôn nhân và gia đình; chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử giữa các thành viên gia đình; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, nhà nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình (Điều 1); khuyến khích kế thừa, phát huy truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình (khoản 5 Điều 2); cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn (điểm b khoản 2 Điều 5). Pháp luật quy định cấm việc kết hôn đối với những hành vi kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng (điểm d khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

Theo quy định của pháp luật, những người cùng dòng máu về trực hệ là những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau (khoản 17 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014); những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì là đời thứ ba (khoản 18 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014).

Bên cạnh quy định điều kiện kết hôn, pháp luật quy định các chế tài đảm bảo cho pháp luật được thực thi trong thực tiễn. Khi các chủ thể vi phạm điều cấm sẽ bị áp dụng chế tài của Nhà nước (chế tài hành chính, chế tài hình sự), tùy vào tính chất, mức độ của hành vi mà áp dụng chế tài để đạt hiệu quả trong việc giáo dục, răn đe đối với chủ thể vi phạm cũng như đối với cộng đồng.

Bên cạnh đó, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật về hôn nhân và gia đình, góp phần giải quyết tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết, nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực ở vùng dân tộc thiểu số, ngày 14/4/2015 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 14/4/2015 phê duyệt Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng dân tộc thiểu số giai đoạn 2015 - 2025”.

2. Thực trạng hôn nhân cận huyết trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên

Hôn nhân là một nét văn hóa đặc trưng của mỗi cộng đồng, dân tộc, do nhiều yếu tố, trong đó, điều kiện phát triển xã hội là một tiêu chí để đánh giá sự tiến bộ của hôn nhân. Trong luật tục đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên có nhiều yếu tố phù hợp với chế độ hôn nhân hiện đại theo quy định của pháp luật, như: Việc kết hôn trên cơ sở tự nguyện, xem xét ý kiến người xung quanh đã có gia đình chưa… đề cao sự chung thủy vợ chồng, những trường hợp ngoại tình, “gian dâm” bị cộng đồng lên án và xử phạt nặng. Thực tiễn, chế độ hôn nhân một vợ, một chồng của dân tộc ở Tây Nguyên đã được xác lập vững chắc.

Trong quá trình triển khai, áp dụng pháp luật vào thực tế, do ảnh hưởng nhiều yếu tố, như vị trí địa lý, đi lại khó khăn, tập quán, luật tục, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật chưa hiệu quả… ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật trên thực tiễn. Thực tiễn cho thấy, các báo cáo hàng năm của các địa phương, các chương trình giám sát, chương trình khảo sát về tình trạng hôn nhân cận huyết ngày càng giảm, đó là một dấu hiệu tích cực đối với chính sách pháp luật.

Khi tiếp cận hiện tượng hôn nhân cận huyết đa số các báo cáo thể hiện sự quan sát từ ngoài vào trong, tuy nhiên, nguyên nhân nội tại (luật tục, trình độ dân trí) chi phối hiện tượng vi phạm pháp luật. Để giải quyết triệt để tình trạng này cần có cách tiếp cận phù hợp, có thể là: Cách tiếp cận từ phía ngoài và cách tiếp cận từ phía trong.

Thứ nhất, tiếp cận vấn đề từ phía ngoài vào trong (từ chính sách và thực thi chính sách áp dụng cho một đối tượng) cho thấy có một số nguyên nhân sau:

(i) Địa bàn tỉnh Tây Nguyên, nhìn rộng hơn là dọc dãy Trường Sơn, đa số các dân tộc theo chế độ mẫu hệ. Thực chất, đây là cách tính nguồn gốc được tính theo dòng nữ, về tập tục tính theo dòng nữ xưa kia. Theo một số nghiên cứu thì việc xác định nguồn gốc tính theo nguồn gốc dòng nữ xuất hiện từ thời thị tộc[1].

(ii) Về điều kiện sinh hoạt. Thực tế cho thấy, hôn nhân cận huyết thường xảy ra ở những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở những địa bàn hẻo lánh; điều kiện sinh hoạt xã hội chưa phát triển so với các vùng có điều kiện vị trí thuận lợi; đời sống dân cư khó khăn, thiếu công ăn việc làm, hoạt động kinh tế chủ yếu làm nương rẫy, chưa áp dụng kiến thức khoa học vào đời sống, sản xuất; trình độ nhận thức, hiểu biết và trình độ dân trí của người dân còn thấp; điều kiện giao thông khó khăn, địa hình hiểm trở nên trai gái khác buôn làng ít có dịp gặp nhau.

(iii) Tác động của luật tục. Trong đời sống của người dân chịu chi phối nhiều luật tục chưa có khoa học kiểm chứng chi phối trong hành vi của người dân; một trong những hủ tục đó là do sự sắp xếp của gia đình hai bên; trong quan niệm của một bộ phận người dân còn cho rằng những người gần dòng máu lấy nhau thì gần gũi nhau hơn, thương yêu nhau hơn, khó bỏ nhau giữa chừng. Cùng với đó, nếu lấy cùng họ hàng thì của cải, ruộng đất không bị phân chia cho họ hàng người khác… Người dân chưa nhận thức được những hệ quả của việc kết hôn cùng huyết thống.

(iv) Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật một số nơi chưa phù hợp, người dân tiếp cận được thông tin pháp luật nhưng chưa hiểu; có nơi tình trạng “nới lỏng” pháp luật và các chế tài xử phạt vi phạm hôn nhân cận huyết thống chưa đủ mạnh để ngăn ngừa, răn đe tình trạng hôn nhân cận huyết thống, việc xử phạt chưa quyết liệt.

Thứ hai, tiếp cận vấn đề từ trong tiếp cận ra (luật tục ảnh hưởng và tác động đến hành vi, quan niệm của cộng đồng xảy ra tình trạng hôn nhân cận huyết).

Theo cách tiếp cận này cho thấy: Điều kiện sinh hoạt của đồng bào dân tộc chịu chi phối nhiều bởi luật tục, luật tục gần như in sâu vào trong tâm trí, chi phối hành vi và sinh hoạt hàng ngày. Trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên, mỗi dân tộc có một luật tục riêng, trong mỗi dân tộc có nhánh (nhóm) riêng, cùng một dân tộc sinh sống ở những địa phương khác nhau sẽ có sự giao thoa với các nhánh và các dân tộc khác có những điểm riêng, như trong ngôn ngữ gọi là “phương ngữ”.

Về luật tục trong hôn nhân nhiều biểu hiện, nhưng với góc độ tiếp cận từ trong ra thì hôn nhân của đồng bào dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên tồn tại hai hình thức là nội tộc hôn tộc người và ngoại tộc hôn dòng họ.

(i) Nội tộc hôn tộc người: Xét trong điều kiện sinh hoạt xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số là hôn nhân cùng dân tộc. Nguyên tắc nội hôn tộc người, luật tục chỉ cho phép nam, nữ kết hôn với những người trong cùng dân tộc. Những trường hợp hôn nhân ngoại tộc không được khuyến khích, thậm chí bị cấm đoán. Tuy nhiên, trải qua quá trình chung sống cùng địa vực, hình thành các mối quan hệ kinh tế, văn hóa ngày càng sâu rộng với các tộc người lân cận nên hôn nhân giữa các cư dân bản địa với nhau, giữa người bản địa với các dân tộc khác không còn là hiện tượng hiếm gặp. Cho đến nay, việc kết hôn với người ngoại tộc đã được đa số thành viên trong cộng đồng chấp nhận. Ðây là một sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, giúp tăng cường sự hiểu biết, thúc đẩy mối quan hệ đoàn kết giữa các dân tộc anh em.

(ii) Ngoại tộc hôn dòng họ: Nguyên tắc ngoại tộc hôn dòng họ cũng là một nguyên tắc cơ bản trong phong tục hôn nhân của nhiều dân tộc trên địa bàn tỉnh Tây Nguyên. Trong cách hiểu về huyết thống, thì người đồng bào ở Tây Nguyên hiểu theo trực quan “cùng dòng họ”, trên cơ sở cách hiểu luật tục nhiều dân tộc quy định dạng “không được kết hôn trong cùng một dòng họ”. Luật tục đa số tồn tại dạng cấm, đây là một dạng quy định cấm, vì đi theo quy định cấm là những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt và sự phản ứng của cộng đồng.

Ví dụ: Một người họ Siu[2] ở Gia Lai thì không được kết hôn với người họ Siu sinh sống ở bất kỳ đâu, cho dù người đó sống ở địa phương khác cách xa về khoảng cách địa lý. Vì, theo quan niệm của người dân đó là cùng huyết thống. Đây cũng là một nội dung cần chú ý trong công tác tuyên truyền. Do nhận thức, cộng với cách tính theo dòng nữ nên việc kết hôn giữa con của người gái và con của người trai trong gia đình[3] được xem là loại hình hôn nhân ưu tiên để duy trì và bảo vệ tài sản trong gia đình, dòng họ[4].

Chính nguyên nhân nội tại bên trong của mỗi cộng đồng người quyết định đến quan điểm hôn nhân của cộng đồng, nếu thay đổi từ trong thì tình trạng hôn nhân cận huyết sẽ được giải quyết triệt để.

3. Một số giải pháp giải quyết tình trạng hôn nhân cận huyết trên địa bàn khu vực Tây Nguyên

Thứ nhất, về tổ chức việc thi hành pháp luật. Pháp luật được ban hành trên cơ sở khoa học và áp dụng chung cho mọi đối tượng, tuy nhiên, vì một số nguyên nhân nào đó (chủ yếu về địa lý) thì vẫn tồn tại một số luật tục ở một số địa bàn. Do vậy, chính quyền địa phương cần rà soát đối với những địa bàn có vùng kinh tế, điều kiện xã hội khó khăn để có biện pháp thi hành pháp luật phù hợp.

Thứ hai, tăng cường phổ biến, giáo dục pháp luật bằng các hình thức phù hợp. Việc hoàn thiện pháp luật là một chức năng của Nhà nước, nhưng để pháp luật đi vào cuộc sống thì cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật đến những vùng địa lý khó khăn, nhiều luật tục, tránh hiện tượng “cưỡi ngựa xem hoa”. Muốn làm được điều đó thì phải có sự phối hợp với các cấp chính quyền, các cơ quan trong hệ thống chính trị để có sự tiếp cận đến từng nhóm đối tượng cụ thể, mỗi nhóm đối tượng có trình độ, điều kiện kinh tế xã hội và nhận thức khác nhau thì cần có cách tiếp cận phù hợp. Đối với những vùng sâu, vùng xa trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần sử dụng hình ảnh trực quan nhiều hơn; chú trọng phát huy tối đa vai trò của những người có uy tín trong cộng đồng. Công tác tuyên truyền vận động người dân về tình trạng hôn nhân cận huyết cần tiến hành thường xuyên.

Thứ ba, nâng cao dân trí vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn. Thực tế cho thấy thì hiện tượng hôn nhân cận huyết xảy ra ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, chịu sự tác động của nhiều luật tục chi phối, trong cách hiểu và thực hiện của người dân cũng chưa nhận thức được trên cơ sở khoa học. Vì vậy, cần đẩy mạnh việc nâng cao dân trí ở những vùng xảy ra hiện tượng này, áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất cũng là một cách tạo áp lực để người dân tự nâng cao kiến thức của mình trong sản xuất và sinh hoạt.

Thứ tư, xây dựng cây phả hệ cho mỗi gia đình. Đây là điều nên khuyến khích làm, trong sinh hoạt của cộng đồng, thì mỗi cá nhân cũng có lòng tự hào, tự trọng riêng về gia đình, dòng họ. Trong cuộc sống có sự so sánh giữa các chủ thể, điều này thể hiện tính tự tôn giữa làng này với làng khác, dân tộc này với dân tộc khác trên cùng địa vực. Bên cạnh đó, xây dựng cây phả hệ về mặt y học cũng theo dõi được sự di truyền, di cư… của một gia đình. Chính điều này nếu áp dụng đúng với một quy trình chuẩn thì không những xóa được tình trạng hôn nhân cận huyết mà có thể là một đòn bẩy trong xóa đói, giảm nghèo và đạt nhiều mục đích hơn nữa đối với những địa bàn khó khăn. Vì, khi đã hướng đến một “giá trị” thì người ta có kiến thức về sự vật, nhưng điều quan trọng người ta biết lưu giữ, phát huy, trong trường hợp này là giá trị văn hóa gia đình./.

ThS. Trần Đức Thú

Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh Gia Lai


[1] Nghiên cứu các con đường đi lên của loài người từ mông muội qua dã man đến văn minh (Chương XIV), của L.H. Morgan, Nxb. Giáo dục Việt Nam.

[2] Người Jarai có một số họ chính như: Siu, Nay, Rơ Chăm, Rơ Mah, Rơ Lan, Ksor …. Người Ba Na có một số họ: Đinh, Hồ, Hà, Siu…

[3] Con cô, con cậu.

[4] Một số dân tộc vùng Tây Nguyên sau giải phóng năm 1975 mới có họ. Người Ba Na trước đây không mang họ, con sinh ra chỉ đặt tên.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm