Thứ bảy 12/07/2025 12:44
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Một số vấn đề pháp lý về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán theo pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích thực trạng và chỉ ra một số vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.

1. Khái quát về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam

Thứ nhất, loại hình kinh doanh dịch vụ kế toán.

Hiện nay, doanh nghiệp hành nghề kế toán được thành lập dưới ba hình thức: (i) Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở lên; (ii) Công ty hợp danh; (iii) Doanh nghiệp tư nhân được quy định tại khoản 1 Điều 59 Luật Kế toán năm 2015 tương đồng với loại hình doanh nghiệp kiểm toán được quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Kiểm toán độc lập năm 2011. Ngoài ra, có thể kinh doanh dịch vụ kế toán dưới hình thức hộ kinh doanh dịch vụ kế toán.

Theo khoản 4 Điều 59 Luật Kế toán năm 2015 và khoản 1, khoản 3 Điều 31 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP ngày 30/12/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Kế toán (Nghị định số 174/2016/NĐ-CP), doanh nghiệp dịch vụ kế toán nước ngoài được thực hiện kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam dưới các hình thức: (i) Góp vốn với doanh nghiệp kế toán tại Việt Nam đang hoạt động để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam; (ii) Thành lập chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài; (iii) Cung cấp dịch vụ kế toán xuyên biên giới theo quy định của Chính phủ.

Trong đó, doanh nghiệp nước ngoài phải “liên danh” với doanh nghiệp đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán của Việt Nam và phải lập thành “hợp đồng liên danh” về việc cung cấp dịch vụ kế toán qua biên giới. Hợp đồng này phải phân định rõ trách nhiệm của các bên trong việc cung cấp dịch vụ kế toán qua biên giới. Bản chất của “hợp đồng liên danh” này là hợp đồng hợp tác không hình thành pháp nhân (BCC) theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Luật Đầu tư năm 2020 và điểm c khoản 4 Điều 59 Luật Kế toán năm 2015 và Điều 31 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP.

Doanh nghiệp dịch vụ kế toán nước ngoài chỉ được góp vốn với doanh nghiệp kế toán Việt Nam có đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán dưới hình thức công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc công ty hợp danh, trong đó, doanh nghiệp kế toán nước ngoài là thành viên góp vốn theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 177 Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Nếu doanh nghiệp kế toán nước ngoài không góp vốn thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam theo các loại hình nêu trên thì thực hiện thành lập chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài tại Việt Nam dưới các hình thức là chi nhánh tương ứng với loại hình doanh nghiệp dịch vụ kế toán nước ngoài theo điểm b khoản 4 Điều 59 Luật Kế toán năm 2015 như: (i) Chi nhánh công ty TNHH hai thành viên trở lên; (ii) Chi nhánh công ty hợp danh; (iii) Chi nhánh doanh nghiệp tư nhân.

Thứ hai, điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán.

Kinh doanh dịch vụ kế toán là ngành nghề kinh doanh có điều kiện theo quy định tại dòng thứ tự số 18 Phụ lục IV Luật Đầu tư năm 2020 và căn cứ tại khoản 2 Điều 59 Luật Kế toán năm 2015 thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh dịch vụ kế toán khi bảo đảm các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật Kế toán năm 2015 và được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán.

Theo quy định tại Điều 60 Luật Kế toán năm 2015 thì điều kiện cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán cho các loại hình doanh nghiệp bao gồm: (i) Có giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc các giấy tờ khác có giá trị tương đương theo quy định của pháp luật; (ii) Có ít nhất 02 thành viên góp vốn hoặc 02 thành viên hợp danh hoặc 02 kế toán viên phải là kế toán viên hành nghề tùy thuộc vào mô hình của mỗi doanh nghiệp; (iii) Người đại diện theo pháp luật đồng thời là giám đốc đối với công ty TNHH, công ty hợp danh hoặc chủ doanh nghiệp tư nhân đồng thời là giám đốc phải là kế toán viên hành nghề.

Căn cứ Điều 65 Luật Kế toán năm 2015, hộ kinh doanh dịch vụ kế toán phải đáp ứng điều kiện: (i) Có giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; (ii) Cá nhân, đại diện nhóm cá nhân thành lập hộ kinh doanh là kế toán viên hành nghề.

2. Một số vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch kế toán tại Việt Nam

Luật Kế toán năm 2015 ra đời đã tạo thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ kế toán và hành nghề kế toán tại Việt Nam. Ban đầu, chỉ từ 18 doanh nghiệp với hơn 30 kế toán viên chuyên nghiệp năm 2008, đến năm 2020, thị trường đã có sự tham gia của hơn 160 doanh nghiệp và hơn 260 kế toán viên chuyên nghiệp[1] cho thấy, thị trường dịch vụ kế toán ngày càng lớn mạnh với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay, vẫn còn một số vướng mắc, bất cập trong quy định của pháp luật về điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam, cụ thể:

Thứ nhất, nhà đầu tư lựa chọn loại hình doanh nghiệp có chế độ TNHH và không chọn những loại hình doanh nghiệp có chế độ trách nhiệm vô hạn.

Theo danh sách doanh nghiệp đủ điều kiện hành nghề cuối năm 2022 (được đăng tải trên Cổng Thông tin điện tử Bộ Tài chính) cho thấy, tổng số 151 doanh nghiệp kế toán (không bao gồm các công ty kiểm toán đăng ký dịch vụ kế toán), có 151 chủ thể kinh doanh dịch vụ kế toán với loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên. Trong khi đó, chỉ có duy nhất 01 doanh nghiệp tư nhân nhưng nay không còn hoạt động và không có bất kỳ công ty hợp danh và hộ kinh doanh nào hoạt động dịch vụ kế toán.

Thực trạng trên cho thấy, các nhà đầu tư và kế toán viên hành nghề có xu hướng lựa chọn thành lập doanh nghiệp kế toán theo loại hình doanh nghiệp có chế độ TNHH để hạn chế rủi ro cho mình thay vì như định hướng là chế độ trách nhiệm vô hạn để giảm rủi ro cho khách hàng. Thực trạng này có thể gây ra một số hệ lụy cho thị trường cũng như ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng và bên thứ ba vì công ty TNHH chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn góp.

Thứ hai, dịch vụ kế toán không cho phép thành lập công ty TNHH một thành viên.

Luật Kế toán năm 2015 không cho phép thành lập doanh nghiệp kế toán theo loại hình công ty TNHH một thành viên do cá nhân và tổ chức làm chủ. Quy định này là hợp lý đối với công ty TNHH một thành viên do tổ chức làm chủ bởi vì pháp luật hiện hành không cho phép tổ chức sở hữu trên 35% vốn điều lệ, đồng thời, bảo đảm được mục tiêu điều tiết thị trường dịch vụ kế toán bằng công cụ tỷ lệ vốn của tổ chức.

Tuy nhiên, xét trên góc độ pháp lý của công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty TNHH một thành viên thì không có điểm khác biệt trọng yếu, bởi lẽ, hai loại hình doanh nghiệp này đều là loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư (thành viên) góp vốn chịu TNHH trên phần vốn điều lệ đã góp. Do đó, nếu doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán hoạt động theo loại hình công ty TNHH hai thành viên trở lên và công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sở hữu là hoàn toàn tương đồng về mặt pháp lý và về mặt TNHH đối với các khoản nợ của công ty cũng như nghĩa vụ đối với khách hàng.

Mặt khác, Luật Kế toán năm 2003 và Luật Kế toán năm 2015 đều cho phép thành lập doanh nghiệp tư nhân và hộ cá nhân kinh doanh dịch vụ kế toán. Rõ ràng, doanh nghiệp tư nhân do 01 cá nhân làm chủ, hộ cá nhân kinh doanh do 01 cá nhân làm chủ và công ty TNHH một thành viên cũng do 01 cá nhân làm chủ thì cần có sự bình đẳng về mặt pháp lý khi kinh doanh dịch vụ kế toán.

Thứ ba, thiếu quy định về tỷ lệ vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh kinh doanh dịch vụ kế toán.

Luật Kế toán năm 2015 không quy định chi tiết về công ty hợp danh kinh doanh dịch vụ kế toán. Cụ thể, Luật Kế toán năm 2015 chỉ quy định về công ty hợp danh mà không đề cập đến loại hình công ty hợp danh có thành viên góp vốn hay không. Như vậy, có thể hiểu, công ty dịch vụ kế toán hợp danh được có thành viên hợp danh góp vốn như quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020.

Với cách quy định này, có thể có vấn đề phát sinh khi công ty hợp danh có thành viên góp vốn là tổ chức. Pháp luật hiện hành không quy định thành viên góp vốn là tổ chức có bị hạn chế về tỷ lệ vốn góp trên vốn điều lệ của công ty hợp danh hay không. Trong khi đó, đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên kinh doanh dịch vụ kế toán, Luật Kế toán năm 2015 và Điều 26 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP có quy định chặt chẽ tỷ lệ vốn góp của tổ chức không vượt quá 35% vốn điều lệ.

Như vậy, quy định trên không áp dụng cho công ty hợp danh hay nói cách khác, nếu là thành viên góp vốn của công ty hợp danh sẽ không bị giới hạn tỷ lệ vốn góp. Điều này đồng nghĩa với việc, mục đích của nhà làm luật hạn chế các tổ chức nói chung và tổ chức nước ngoài kinh doanh dịch vụ kế toán tại Việt Nam sẽ không đạt được nếu các nhà đầu tư là tổ chức đăng ký và thành lập công ty hợp danh có thành viên góp vốn là tổ chức. Đồng thời, sự thiếu sót này vô tình tạo ra sự bất bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán.

Thứ tư, tỷ lệ góp vốn của kế toán viên hành nghề chưa phù hợp.

Tại khoản 1 Điều 60 Luật Kế toán năm 2015 và khoản 1 Điều 27 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP quy định công ty TNHH hai thành viên trở lên phải có ít nhất hai thành viên góp vốn là kế toán viên hành nghề chiếm tỷ lệ trên 50% vốn điều lệ của công ty. Quy định này nhằm hướng tới mục tiêu để gắn trách nhiệm của các kế toán viên hành nghề với doanh nghiệp kế toán vì đây là ngành nghề phụ thuộc nhiều vào đạo đức, chuyên môn của kế toán viên. Do đó, quy định của Luật Kế toán năm 2015 yêu cầu kế toán viên hành nghề là chủ doanh nghiệp chiếm tối thiểu trên 50% vốn điều lệ nhằm tạo ra sự cẩn trọng cần thiết cũng như nâng cao trách nhiệm về kinh tế và pháp lý của kế toán viên hành nghề. Bởi lẽ, khi họ là chủ doanh nghiệp thì họ sẽ có trách nhiệm cao hơn so với kế toán viên hành nghề chỉ là người lao động.

Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp kế toán được thành lập dưới hình thức công ty TNHH, chịu TNHH về các khoản nợ của công ty trên số vốn đã góp. Như vậy, rủi ro cho thị trường, rủi ro cho khách hàng và bên thứ ba khi các doanh nghiệp kế toán là các công ty TNHH hai thành viên trở lên với số vốn khiêm tốn, vì doanh nghiệp kế toán không yêu cầu vốn pháp định nên nhà đầu tư đăng ký với mức vốn khiêm tốn để giảm rủi ro cho mình. Khi vốn của doanh nghiệp không lớn sẽ dẫn đến những rủi ro cho khách hàng, đồng thời, cũng vì vốn không lớn nên các doanh nghiệp sẽ không có tiềm lực để đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin, đầu tư cho quy trình, nguồn nhân lực, từ đó ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng của dịch vụ kế toán.

Thứ năm, tỷ lệ góp vốn của tổ chức trong công ty TNHH hai thành viên trở lên chưa thực sự phù hợp.

Khoản 1 Điều 60 Luật Kế toán năm 2015 và Điều 26 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP quy định, công ty TNHH hai thành viên trở lên có thành viên góp vốn là tổ chức thì ngoài các điều kiện phải có ít nhất hai thành viên góp vốn là kế toán viên hành nghề chiếm tỷ trên 50% vốn điều lệ của công ty thì tỷ lệ góp vốn của các thành viên là tổ chức chỉ được góp tối đa 35% vốn điều lệ của công ty TNHH hai thành viên trở lên. Quy định này xuất phát từ mục tiêu giảm tỷ lệ góp vốn của tổ chức để tăng tỷ lệ góp vốn của cá nhân là kế toán viên hành nghề, từ đó nâng cao tinh thần trách nhiệm và sự cẩn trọng của kế toán viên hành nghề.

Bên cạnh đó, quy định này cũng nhằm bảo hộ các doanh nghiệp kế toán Việt Nam trước sự gia nhập thị trường của doanh nghiệp kế toán nước ngoài vào Việt Nam. Bởi lẽ, doanh nghiệp kế toán nước ngoài chỉ có thể góp vốn không quá 35% vốn điều lệ, phần còn lại ít nhất 65% phải do cá nhân góp vốn. Trong đó, kế toán viên hành nghề phải có tối thiểu trên 50% và phần còn lại có thể là cá nhân trong nước hoặc người nước ngoài là kế toán viên hoặc không là kế toán viên hành nghề. Tuy nhiên, trên thực tế, người nước ngoài rất khó có thể trở thành kế toán viên của Việt Nam nên mô hình chung ít nhất 65% còn lại thường phải là trên 50% là bên Việt Nam nhằm bảo vệ quyền biểu quyết cho kế toán viên Việt Nam. Tuy nhiên, cũng chính vì tổ chức chỉ được góp vốn không quá 35% vốn điều lệ như quy định hiện hành đã làm cho các nhà đầu tư có tiềm lực không đầu tư vào lĩnh vực này, từ đó, dẫn đến nhiều hệ lụy trên thực tế.

Thứ sáu, thủ tục cấp phép kinh doanh cho chi nhánh doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kế toán nước ngoài tại Việt Nam còn rườm rà, phức tạp.

Chi nhánh doanh nghiệp nước ngoài là thương nhân nước ngoài có hiện diện thương mại tại Việt Nam. Về thủ tục thành lập, phải thực hiện đăng ký tại Bộ Công Thương. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Bộ Công Thương phải xin ý kiến Bộ Tài chính về việc cấp phép. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, Bộ Tài chính phải có văn bản trả lời chấp thuận hay không chấp thuận việc cấp phép. Sau khi được Bộ Công Thương cấp phép chi nhánh doanh nghiệp kế toán tại Việt Nam thì tiếp tục thực hiện đăng ký cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ tại Bộ Tài chính.

Bên cạnh đó, mặc dù quy định của pháp luật quy định rất rõ ràng về thời hạn nhưng thực tế thời gian này lâu hơn rất nhiều bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có việc nộp hồ sơ của doanh nghiệp kế toán nước ngoài bằng bưu điện hoặc trực tiếp theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 07/2016/NĐ-CP ngày 25/01/2016 của Chính phủ quy định chi tiết Luật Thương mại về văn phòng đại diện, chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại Việt Nam, dẫn đến quá trình giải quyết thủ tục hành chính theo phương thức văn bản chưa thể áp dụng thực hiện trao đổi thông tin theo hình thức điện tử.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, pháp luật về kế toán nên có quy định cho phép công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ được kinh doanh dịch vụ kế toán tương tự doanh nghiệp tư nhân và hộ cá nhân kinh doanh để bảo đảm công bằng và phù hợp với thực tiễn. Khi đó, công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ phải có tối thiểu 02 kế toán viên hành nghề và chủ sở hữu kiêm giám đốc công ty TNHH một thành viên phải là kế toán viên hành nghề để tương đồng với doanh nghiệp tư nhân và hộ cá nhân kinh doanh dịch vụ kế toán.

Nếu thực hiện chính sách cho phép doanh nghiệp kế toán dưới loại hình công ty TNHH một thành viên do cá nhân làm chủ sẽ tạo thuận tiện cho nhiều cá nhân khởi nghiệp kinh doanh dưới loại hình này. Vì không cần phải có hai chứng chỉ hành nghề và không cần phải có thêm thành viên là kế toán viên hành nghề như quy định hiện nay nên sẽ gia tăng được số lượng doanh nghiệp dịch vụ kế toán tại Việt Nam trong giai đoạn tới, đồng thời đáp ứng được nhu cầu của thị trường cũng như phù hợp với mô hình doanh nghiệp nhỏ hoạt động dịch vụ kế toán, phục vụ cho nhu cầu 90% doanh nghiệp nhỏ và vừa trong tổng gần 01 triệu doanh nghiệp hiện nay.

Bên cạnh đó, chính sách này được thực hiện sẽ giảm được tình trạng cho thuê chứng chỉ hành nghề kế toán[2] và hạn chế được các hệ lụy, rủi ro phát sinh từ các tranh chấp giữa các kế toán viên hành nghề và người cho thuê chứng chỉ hành nghề kế toán với tư cách là thành viên góp vốn giả tạo như các tranh chấp về quyền sở hữu, quyền quản lý và điều hành công ty... Ngoài ra, chính sách này có thể sẽ làm giảm bớt các hệ lụy cho nghề dịch vụ kế toán, nâng cao chất lượng hành nghề cũng như làm giảm các chi phí tuân thủ và đặc biệt là hạn chế rào cản ra nhập thị trường.

Thứ hai, bổ sung theo hướng cho phép thành lập công ty hợp danh có thành viên góp vốn là tổ chức và cá nhân để phù hợp với Luật Doanh nghiệp năm 2020 và phù hợp với thực tế. Đồng thời, nên quy định về tỷ lệ mức vốn góp nói chung của tổ chức không vượt quá 50% vốn điều lệ thay vì quy định tỷ lệ mức vốn của tổ chức là công ty TNHH hai thành viên tại Điều 26 Nghị định số 174/2016/NĐ-CP nhằm khuyến khích nguồn đầu tư tài chính, tạo điều kiện cho dịch vụ kế toán được tiếp cận và được đầu tư cơ sở vật chất tốt hơn.

Thứ ba, bãi bỏ quy định kế toán viên hành nghề phải góp vốn tối thiểu trên 50% vốn điều lệ đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên và cân nhắc xây dựng các quy định về bảo hiểm nghề nghiệp cũng như quản lý chất lượng hành nghề thông qua bắt buộc cập nhật kiến thức hành nghề hàng năm.

Thứ tư, bổ sung điều kiện kinh doanh dịch vụ kế toán về bảo hiểm nghề nghiệp hoặc vốn pháp định và các quy định về quản lý chất lượng hành nghề thông qua bắt buộc cập nhật kiến thức hàng năm.

Thứ năm, đối với chi nhánh doanh nghiệp kế toán nước ngoài tại Việt Nam, cần quy định cụ thể các trường hợp phải xin ý kiến chấp thuận của Bộ Tài chính để Bộ Công Thương có cơ sở cấp giấy chứng nhận đăng ký chi nhánh doanh nghiệp kế toán tại Việt Nam được thuận tiện, nhanh gọn, đồng thời, gộp quy định cấp phép chi nhánh với quy định cấp phép hành nghề vào thủ tục một cửa tại Bộ Công Thương trên cơ sở nộp hồ sơ và giải quyết hồ sơ bằng phương thức điện tử.

ThS. Hồ Thị Thanh Trúc

Giảng viên Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Tài chính - Marketing,

Nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

Nguyễn Văn Được

Công ty TNHH Kế toán và Tư vấn Thuế Trọng Tín

[1]. Hoàng Kim Oanh (2021), Thị trường dịch vụ kế toán Việt Nam trước tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/thi-truong-dich-vu-ke-toan-viet-nam-truoc-tac-dong-cua-cach-mang-cong-nghiep-40-78713.htm, truy cập ngày 20/4/2023.

[2]. Long Nguyễn, Lê Anh (2020), Tràn lan thuê mướn bằng cấp chứng chỉ hành nghề, https://laodong.vn/xa-hoi/tran-lan-thue-muon-bang-cap-chung-chi-hanh-nghe-851102.ldo, truy cập ngày 26/5/2023.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 390), tháng 10/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Những điểm mới trong Luật Cán bộ, công chức năm 2025 góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của nền hành chính hiện đại

Trong nền hành chính quốc gia Việt Nam, đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng trung tâm, giữ vai trò quyết định đến chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước. Mọi hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức đều có ảnh hưởng lớn đến uy tín của nền hành chính quốc gia, không chỉ phản ánh trình độ văn minh, hiện đại của nền hành chính mà còn phản ánh tính ưu việt của thể chế chính trị hiện hành. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” được coi là mục tiêu, nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị, tạo bước đột phá để đưa đất nước ta vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã từ 01/7/2025

Từ ngày 01/7/2025, mô hình tổ chức chính quyền địa phương hai cấp (cấp tỉnh và cấp xã) chính thức vận hành trên thực tiễn. Theo đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân cấp xã (xã, phường, đặc khu) được tăng cường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu chính trị của nước ta trong tình hình mới.
Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025 - Hành lang pháp lý quan trọng tạo môi trường số an toàn, bảo vệ quyền riêng tư của người dân

Ngày 26/6/2025, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân năm 2025, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ quyền riêng tư của người dân, doanh nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh dữ liệu cá nhân ngày càng trở nên quan trọng và đang phải đối mặt với nhiều rủi ro bị đánh cắp, xâm phạm trên môi trường số.
Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi thành doanh nghiệp - Thách thức từ chính sách thuế mới và giải pháp

Khuyến khích hộ kinh doanh chuyển đổi sang doanh nghiệp là chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu có 02 triệu doanh nghiệp đến năm 2030 và 03 triệu doanh nghiệp đến năm 2045. Để chính sách phát huy hiệu quả cũng cần có những giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức. Đây là một trong những nội dung nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội và được các đại biểu Quốc hội chất vấn tại Phiên chất vấn về nhóm vấn đề thứ nhất thuộc lĩnh vực tài chính diễn ra vào sáng ngày 19/6/2025.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính tập trung xử lý những lĩnh vực mới phát sinh, đòi hỏi cấp thiết từ thực tiễn và đang có “khoảng trống” pháp lý

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh tại phiên họp toàn thể tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 25/6/2025 về Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Với 435/435 đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu tham gia biểu quyết), Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam với nhiều quy định “mở”, góp phần thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao đóng góp vào sự phát triển của đất nước

Sáng 24/6/2025, với 416/416 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành (đạt tỷ lệ 100% đại biểu có mặt), Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quốc tịch Việt Nam.
Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Vai trò của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Ngày 16/6/2025, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật số 72/2025/QH15 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2025) đã nâng tầm vị trí, vai trò, chức năng của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng chuyển đổi từ tư duy điều hành tập thể sang phát huy vai trò cá nhân, gắn với chế độ, trách nhiệm rõ ràng, cụ thể. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ là người đứng đầu về mặt hành chính mà còn là hạt nhân điều hành, góp phần hiện thực hóa mô hình quản trị địa phương hiện đại.
Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son