Thứ hai 09/06/2025 11:55
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản

Tóm tắt: Bài viết nêu lên một số hạn chế, vướng mắc liên quan đến mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, đồng thời phân tích nguyên nhân của những vướng mắc, hạn chế đó. Từ đó, đưa ra những đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về vấn đề này.


Abstract: The paper points out some insufficiencies, entanglements relating to level of costs for examination, re-examination on site, assets measurement and valuation, at the same time, analyses causes of such insufficiencies and entanglements. From that point, the author makes recommendations, proposals for completion of legal provisions concerning this issue.

Xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là những biện pháp thu thập tài liệu, chứng cứ do đương sự yêu cầu hoặc do thẩm phán chủ động tiến hành khi xét thấy cần thiết và được thực hiện theo trình tự của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản được quy định cụ thể tại Điều 101 và Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về nghĩa vụ tạm ứng chi phí đo đạc không được quy định cụ thể tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, việc đo đạc là rất cần thiết, đo đạc để xác định diện tích, ranh giới đất tranh chấp, cây trồng, vật kiến trúc trên đất để làm cơ sở giải quyết vụ án. Do đó, tạm ứng chi phí đo đạc là một vấn đề rất cần thiết và thực tế Tòa án cũng yêu cầu đương sự nộp tạm ứng chi phí đo đạc.

1. Một số hạn chế, vướng mắc liên quan đến mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản

Thứ nhất, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì mức để Tòa án ấn định cho đương sự nộp tiền tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là số tiền Tòa án tạm tính để tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ[1] và tiền tạm ứng chi phí định giá tài sản là số tiền mà Hội đồng định giá tạm tính để tiến hành việc định giá tài sản theo quyết định của Tòa án[2], Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định tiền tạm ứng chi phí đo đạc nhưng thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy, số tiền tạm ứng trên cũng sẽ do Tòa án tạm tính để tiến hành việc đo đạc. Vì vậy, mức tạm ứng các chi phí tố tụng bao gồm xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản sẽ do Tòa án quyết định và Tòa án sẽ ấn định mức trên dựa vào tạm tính thực tế số tiền sẽ chi cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản để thông báo cho đương sự nộp tạm ứng. Hiện nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn chi tiết những khoản cần phải chi trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Thông thường, những khoản cần phải chi trong việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản sẽ bao gồm những khoản sau: (i) Chi phí đo vẽ nhà đất, được tính theo giá của cơ quan có chức năng đo vẽ nhà, đất, đây là chi phí có hợp đồng, biên lai thu tiền; (ii) Chi phí cho phương tiện đi lại, nếu địa điểm ở xa thì chi phí được tính theo giá vận chuyển, sẽ có hóa đơn, chứng từ, nếu địa điểm gần thì cán bộ Tòa án và thành viên sẽ tự túc phương tiện; (iii) Chi phí cho đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường tham gia phối hợp cùng Tòa án để tiến hành xác định vị trí đất, ranh giới đất; (iv) Chi phí cho Hội đồng định giá. Ngoài những khoản chi như trên thì một số Tòa án sẽ còn những khoản chi khác và những khoản chi đó đa phần sẽ có hóa đơn, chứng từ để sau này có thể quyết toán lại với đương sự.

Thứ hai, hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết về trình tự và thủ tục thu, chi liên quan đến chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản nên việc ấn định mức tạm ứng thường theo ý chủ quan của Tòa án dẫn đến mỗi Tòa án thực hiện mỗi cách khác nhau. Đồng thời, các khoản chi có cần hóa đơn, chứng từ hay không cũng cần phải quy định chi tiết. Đối với các khoản chi có hóa đơn, chứng từ thì việc thu, chi tương đối dễ dàng nhưng các khoản chi trên phải nhằm phục vụ cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản của Tòa án. Tuy nhiên, trên thực tế có một số khoản chi không thể có hóa đơn, chứng từ, các trường hợp trên có được tính vào số tiền để Tòa án thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản hay không (như: Tiền xăng xe cá nhân của thẩm phán và thư ký để đi đến địa điểm cần phải xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản...). Đối với các trường hợp trên thì thực tế Tòa án vẫn tính vào tiền xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, bởi vì số tiền mà Tòa án chi trên đều nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Theo quy định tại khoản 2 Điều 155 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho việc xem xét, thẩm định tại chỗ căn cứ vào quy định của pháp luật; tại khoản 2 Điều 163 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì chi phí định giá tài sản là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả cho công việc định giá tài sản và do Hội đồng định giá tính căn cứ vào quy định của pháp luật. Như vậy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định các khoản chi của Tòa án cần phải có hóa đơn, chứng từ, mà các khoản chi phải là số tiền cần thiết và hợp lý phải chi trả. Quy định như trên rất chung chung nên dễ dẫn đến trường hợp Tòa án chi những khoản chi không phù hợp nhưng Tòa án lại cho rằng, những khoản chi đó là cần thiết và hợp lý phải chi trả.

Có thể thấy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là số tiền Tòa án tạm tính để tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản nhưng chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết rõ ràng về trình tự và thủ tục thu, chi liên quan đến chi phí trên nên việc ấn định mức tạm ứng thường theo ý chủ quan của Tòa án. Do đó, có nhiều trường hợp thẩm phán sẽ cố tình ra thông báo tạm ứng chi phí tố tụng rất cao so với thực tế với mục đích gây khó khăn cho đương sự, đương sự không có khả năng nộp tiền tạm ứng thì Toà án sẽ căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đình chỉ giải quyết vụ án. Đồng thời, theo khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn sẽ không được khởi kiện lại vụ án. Tuy nhiên, thực tế còn xảy ra trường hợp Tòa án ra thông báo để đương sự nộp tạm ứng chi phí tố tụng với số tiền khá cao và đương sự chỉ có số tiền ít hơn số tiền Tòa án đã thông báo và đương sự cho rằng số tiền đó đã đủ để Tòa trưng cầu cơ quan chuyên môn để tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, đương sự chỉ nộp số tiền như trên. Đối với trường hợp này, thông thường, Toà án sẽ không đồng ý, bởi vì Toà án đã ra thông báo để đương sự nộp đủ số tiền như đã thông báo. Vì vậy, khi nào đương sự đủ số tiền Tòa án thông báo thì Tòa án mới lập biên bản giao nhận tiền, nếu không đủ thì Tòa án sẽ không thực hiện việc lập biên bản giao nhận tiền và nếu quá thời hạn nộp tiền tạm ứng chi phí tố tụng thì Tòa án sẽ giải quyết theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 và khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tác giả không đồng ý với việc Tòa án từ chối giao nhận tiền khi đương sự nộp, vì số tiền Tòa án đưa ra có thể cao hơn rất nhiều so với chi phí thực tế tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Tuy nhiên, khi đương sự nộp số tiền ít hơn số tiền Tòa án thông báo và cho rằng số tiền trên đã đủ để Tòa án trưng cầu cơ quan chuyên môn thực hiện thì đương sự phải chứng minh cho lời trình bày của mình, có thể thông qua những hợp đồng đo đạc, định giá những phần tài sản tranh chấp tương tự trong thực tế.

Đối với mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản thì hiện nay có hai quan điểm khi Tòa án ra thông báo yêu cầu đương sự tạm ứng chi phí tố tụng như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là số tiền Tòa án tạm tính để tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Do đó, việc xác định mức tạm ứng sẽ do thẩm phán giải quyết vụ án tạm tính trên cơ sở số tiền sẽ chi cho việc trưng cầu cơ quan chuyên môn để thực hiện. Số tiền trên sẽ dựa vào những tham khảo trên thực tế, cộng với những chi phí phát sinh để thẩm phán tính toán ra mức tạm ứng cuối cùng và thông báo cho đương sự yêu cầu được biết để nộp tạm ứng. Tuy nhiên, thực tế sẽ xảy ra rất nhiều rủi ro do số tiền tạm ứng chi phí tố tụng là do Tòa án tạm tính, số tiền trên sẽ dựa vào ý chí chủ quan của thẩm phán giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, do phụ thuộc và ý chí chủ quan nên mỗi thẩm phán sẽ có cách tính toán khác nhau và thông báo số tiền tạm ứng khác nhau. Từ đó, sẽ dẫn đến không thống nhất giữa các Tòa án và khó khăn cho đương sự khi Tòa án ra thông báo với mức khá cao so với thực tế.

Quan điểm thứ hai cho rằng, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là số tiền Tòa án tạm tính để tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Tuy nhiên, với số tiền tạm ứng, Tòa án phải dựa trên những chi phí Tòa án chi trên thực tế thông qua cơ quan chuyên môn cung cấp cho Tòa án. Do đó, để tiến hành thông báo số tiền tạm ứng chi phí tố tụng cho đương sự thì trước tiên Tòa án phải liên hệ với cơ quan Tòa án tiến hành trưng cầu để các cơ quan đó cung cấp cho Tòa án bản dự tính số tiền thực hiện việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản. Sau đó, Tòa án sẽ tổng hợp tất cả số tiền tạm tính và ra thông báo tạm ứng chi phí tố tụng kèm theo bản kê chi tiết số tiền tạm tính chi, những khoản cần phải chi. Khi đó, nếu đương sự không nộp số tiền tạm ứng trên thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án mới thuyết phục.

Với hai quan điểm trên, tác giả đồng ý với quan điểm thứ hai, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định và chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết nhưng hiểu theo quan điểm thứ hai sẽ hợp lý, đảm bảo quyền lợi chính đáng của đương sự, khi đó thông báo tạm ứng chi phí tố tụng của Tòa án sẽ có giá trị pháp lý và thuyết phục. Bởi vì, số tiền Tòa án thông báo là những khoản Tòa án sẽ chi được liệt kê chi tiết và cung cấp cho đương sự, đây là số tiền cần thiết để Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản đã được cơ quan chuyên môn xác nhận. Nếu mức tạm ứng Tòa án đưa ra và buộc đương sự phải nộp trong khoảng thời gian nhất định nhưng đương sự không thể nộp thì Tòa án không thể tiến hành những biện pháp thu thập chứng cứ trên được, dẫn đến vụ án không thể nào giải quyết được. Vì vậy, khi hết thời hạn nộp tạm ứng chi phí tố tụng mà đương sự không nộp mà không có lý do chính đáng thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 là hoàn toàn thuyết phục.

Ngoài ra, đối với mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản còn xảy ra trường hợp Tòa án tạm tính số tiền để tiến hành việc xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản nhưng thực tế chưa có văn bản hướng dẫn chi tiết rõ ràng về trình tự và thủ tục thu, chi liên quan đến chi phí trên nên việc ấn định mức tạm ứng thường theo ý chủ quan của Tòa án và Tòa án đã tạm tính số tiền quá thấp, dẫn đến trường hợp khi thanh toán cho cơ quan chuyên môn chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản thì số tiền tạm ứng không đủ để thanh toán. Đối với vấn đề trên thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định Tòa án tạm tính số tiền xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản để thông báo và yêu cầu đương sự nộp. Trong trường hợp này, Tòa án đã thông báo yêu cầu đương sự nộp số tiền cụ thể, đương sự đã nộp đủ, nhưng số tiền đương sự đã nộp không đủ thanh toán cho cơ quan chuyên môn thì Tòa án có thể thông báo để đương sự nộp thêm số tiền để đủ thanh toán hay không và nếu đương sự không nộp thì Tòa án sẽ xử lý như thế nào. Tòa án không thể căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đình chỉ giải quyết vụ án do nguyên đơn không nộp tiền tạm ứng chi phí định giá và chi phí tố tụng khác, bởi vì nguyên đơn có nộp tiền đầy đủ theo thông báo của Tòa án nhưng số tiền nguyên đơn nộp không đủ để thanh toán. Nếu Tòa án thông báo đương sự nộp thêm số tiền nhưng đương sự không nộp thì Tòa án không thể cho rằng đương sự không nộp tạm ứng theo yêu cầu của Tòa án do đương sự đã nộp theo thông báo lần đầu của Tòa án và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định nên không có căn cứ để Tòa án thông báo cho đương sự nộp đầy đủ số tiền, trường hợp này lỗi thuộc về Tòa án do Tòa án tạm tính số tiền không đủ để thanh toán cho cơ quan chuyên môn. Trong quá trình giải quyết vụ án, nếu không thanh toán đủ chi phí cho cơ quan chuyên môn thì Tòa án không thể nào lấy kết quả để phục vụ cho quá trình giải quyết vụ án được. Theo quan điểm của tác giả, đối với trường hợp trên thì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định số tiền tạm ứng chi phí tố tụng sẽ do Tòa án tạm tính nên thực tế thẩm phán giải quyết vụ án phải tạm tính số tiền tạm ứng cao hơn số tiền thanh toán cho cơ quan chuyên môn, nhưng không được tạm tính quá cao hoặc vừa đủ để thanh toán, bởi vì quá trình giải quyết vụ án ngoài việc thanh toán cho cơ quan chuyên môn thì có thể còn phát sinh một số chi phí tố tụng khác và thẩm phán có thể có số tiền tạm ứng để thanh toán mà không phải thông báo yêu cầu đương sự tiếp tục nộp.

Nguyên nhân chính dẫn đến mức tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản có những vướng mắc trên thực tế áp dụng là do Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định chi phí tố tụng do Tòa án tạm tính, nhưng không quy định chi tiết cách tạm tính như thế nào và không hướng dẫn về trình tự, thủ tục thu, chi liên quan đến chi phí tố tụng trên. Do đó, số tiền tạm ứng chi phí tố tụng được Tòa án tạm tính dựa trên ý chí chủ quan của cá nhân thẩm phán giải quyết vụ án, chính vì dựa ý chí chủ quan mà không có bất kỳ văn bản hướng dẫn chung nên mỗi thẩm phán giải quyết vụ án sẽ nhìn nhận khác nhau và thông báo khác nhau đối với vụ án họ được phân công giải quyết. Từ đó, dẫn đến trường hợp có vụ án Tòa án thông báo yêu cầu đương sự nộp tạm ứng chi phí tố tụng nhưng sau khi thanh toán toàn bộ chi phí đối với các cơ quan chuyên môn thì số tiền còn lại dư rất nhiều và trường hợp khác thì số tiền Tòa án thông báo cho đương sự nộp lại không đủ để thanh toán chi phí với cơ quan chuyên môn.

2. Một số đề xuất, kiến nghị

Từ những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tác giả kiến nghị cần phải có văn bản hướng dẫn Điều 155 và Điều 163 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 theo hướng như sau:

Thứ nhất, cần quy định trường hợp trước khi Tòa án tiến hành thông báo số tiền để đương sự nộp tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản thì Tòa án phải có bản dự tính số tiền thực hiện thông qua số tiền Tòa án dự kiến chi được cung cấp từ cơ quan chuyên môn. Cụ thể, đối với việc xem xét, thẩm định tại chỗ thì: “Trong trường hợp Tòa án thông báo tạm ứng chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ thì Tòa án sẽ lập bản kê chi tiết những khoản Tòa án sẽ phải chi và thẩm phán phải ký tên đóng dấu xác nhận”. Đối với việc đo đạc, định giá tài sản thì: “Toà án sẽ tiến hành liên hệ với cơ quan đo vẽ, định giá để các cơ quan trên cung cấp cho Tòa án bản dự kiến tạm tính số tiền đo đạc, định giá trên diện tích khu đất, nhà đang tranh chấp và xác nhận vào bản dự kiến tạm tính số tiền đo đạc để cung cấp cho Tòa án”. Sau đó, Tòa án sẽ tổng hợp tất cả số tiền tạm tính chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản là bao nhiêu và Tòa án sẽ ra thông báo tạm ứng chi phí tố tụng kèm theo bản kê chi tiết số tiền tạm tính chi và những khoản cần phải chi để cung cấp cho đương sự. Quy định như trên sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và đương sự sẽ biết được những khoản cần phải chi và số tiền cụ thể Tòa án phải chi để đương sự thực hiện nghĩa vụ tạm ứng chi phí tố tụng. Trong trường hợp đương sự không nộp tạm ứng chi phí tố tụng thì việc đình chỉ giải quyết vụ án mới có căn cứ và thuyết phục.

Thứ hai, cần phải có văn bản hướng dẫn quy định chi tiết những khoản cần phải chi khi tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản để tránh trường hợp Tòa án chi vào những khoản không đúng quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự. Tác giả kiến nghị nên có văn bản hướng dẫn những khoản cần phải chi khi tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản theo hướng: “Khi Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản thì những khoản Tòa án cần phải chi bao gồm: Chi phí đo vẽ nhà đất, được tính theo giá của cơ quan có chức năng đo vẽ nhà, đất; chi phí cho phương tiện đi lại; chi phí cho đại diện Ủy ban nhân dân xã, phường tham gia phối hợp cùng Tòa án để tiến hành xác định vị trí đất, ranh đất; chi phí cho Hội đồng định giá, các chi phí Tòa án chi phải có hóa đơn, chứng từ và được lưu trong hồ sơ vụ án”. Hướng giải quyết này sẽ giúp Tòa án xác định được chính xác những khoản cần phải chi trả khi tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản, sẽ đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự.

Nguyễn Minh Hiếu

Tòa án nhân dân TP. Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương

Tài liệu tham khảo:

[1]. Khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Khoản 1 Điều 163 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm