Thứ năm 21/08/2025 18:54
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Nghĩa vụ pháp lý của con người trong pháp luật và cơ chế thực thi

Trong lý luận cơ bản của pháp luật, quyền và nghĩa vụ là hai mặt của một vấn đề. Nếu con người có quyền được thụ hưởng thì cũng có nghĩa vụ phải thực hiện. Bài viết nghiên cứu về nghĩa vụ con người và cơ chế thực thi nghĩa vụ của con người để tạo sự cân bằng cho xã hội, tìm lại thăng bằng cho tâm lý đạo đức, dự trữ nguồn lực để xây dựng xã hội.



1. Về nghĩa vụ pháp lý của con người trong pháp luật

Nghĩa vụ pháp lý của con người là cách xử sự (việc, công việc, hành vi) do pháp luật quy định mà con người buộc phải thực hiện (phải làm hoặc không được làm), nhằm đem lại trật tự cho xã hội và nguồn lực cho quốc gia.

Nghĩa vụ pháp lý của con người có các điểm đặc thù cơ bản: (i) Được pháp luật (pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia) ghi nhận một cách cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức. (ii) Có phạm vi tác động rộng lớn trong quốc gia, thậm chí vượt khỏi biên giới quốc gia (công dân đi ra nước ngoài vẫn phải tuân thủ pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch). Đối tượng tác động (chủ thể phải thực thi nghĩa vụ) của nghĩa vụ pháp lý thường là mọi người (cũng là công dân). Nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước quy định trong pháp luật nên thường được phổ biến bằng hệ thống cơ quan nhà nước. (iii) Có tính ràng buộc cao vì được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế, là các biện pháp nghiêm khắc hơn so với các biện pháp xã hội khác. Nếu chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ pháp lý của con người thì có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý (giam giữ, phạt tiền, lao động công ích…).

Nghĩa vụ con người trong pháp luật có thể được phân chia thành nhiều loại khác nhau, theo Hiến pháp và các bộ luật bao gồm các lĩnh vực của đời sống xã hội như nghĩa vụ kinh tế, nghĩa vụ chính trị, nghĩa vụ dân sự, nghĩa vụ văn hóa, nghĩa vụ xã hội, nghĩa vụ môi trường…, hoặc chia thành nghĩa vụ cơ bản (bảo vệ Tổ quốc, đóng thuế, bảo vệ môi trường…) và nghĩa vụ chi tiết (xe đi đúng làn đường, đúng tốc độ…), hoặc theo phạm vi thì chia thành nghĩa vụ trong pháp luật quốc tế và trong pháp luật quốc gia...

2. Mục đích, ý nghĩa của việc quy định nghĩa vụ con người trong pháp luật

Thứ nhất, khẳng định tầm quan trọng và tính phổ quát của nghĩa vụ con người

Pháp luật luôn được công khai với mọi đối tượng, có khả năng tác động đến mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội, có khả năng tác động đến mọi vùng miền lãnh thổ trong phạm vi quản lý của chính quyền. Không những thế, khi nghĩa vụ con người được quy định trong các văn kiện quốc tế thì phạm vi tác động của nó còn mở rộng ra khỏi biên giới của một quốc gia, thậm chí là ảnh hưởng toàn cầu nếu có nhiều quốc gia tham gia ký kết. Vì vậy, việc quy định nghĩa vụ con người trong pháp luật là sự xác lập vị thế quan trọng và tính phổ quát của nghĩa vụ con người trong đời sống xã hội, khác với những nghĩa vụ con người chỉ tồn tại trong phong tục tập quán địa phương hay ý thức đạo đức cá nhân.

Thứ hai, tăng tính ràng buộc trong việc thực thi nghĩa vụ con người

Pháp luật mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, được Nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp khác nhau như tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, cưỡng chế… trong đó, quan trọng nhất là biện pháp cưỡng chế nhà nước. Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại một bộ phận không nhỏ các cá nhân thiếu ý thức tự giác, không chịu chấp hành pháp luật. Đối với những đối tượng đó, các biện pháp như tuyên truyền, giáo dục không phải lúc nào cũng phát huy tác dụng. Nhà nước cần phải dùng biện pháp cưỡng chế của pháp luật mới có thể thiết lập được trật tự ổn định xã hội. Pháp luật có được sức mạnh này chính là nhờ sức mạnh của Nhà nước, sức mạnh của bộ máy chuyên nghiệp, chuyên môn làm nhiệm vụ cưỡng chế. Khi nghĩa vụ con người được quy định trong pháp luật, các cá nhân phải chấp hành nghiêm chỉnh, không phụ thuộc vào ý chí của họ có muốn hay không. Điều này cũng góp phần tạo ra sự công bằng và bình đẳng trong việc thực thi nghĩa vụ của các cá nhân.

Thứ ba, nâng cao ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm và bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng

Khi pháp luật được ban hành một cách công khai và rộng rãi, bắt buộc các cá nhân trong xã hội phải “nắm bắt” được chúng. Với vai trò định hướng tư tưởng và hành vi của con người, pháp luật buộc các cá nhân phải hình thành thói quen suy nghĩ và hành động hợp pháp, tuân thủ, tôn trọng pháp luật. Việc quy định nghĩa vụ con người trong pháp luật sẽ góp phần nâng cao ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận của cá nhân đối với cộng đồng. Thông qua các quy định của pháp luật, các cá nhân sẽ biết chính xác và cụ thể những hành vi nào buộc phải thực hiện, hành vi nào bị cấm thực hiện để hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận của mình. Từ đó, các cá nhân có cơ sở để lựa chọn và thực hiện hành vi một cách phù hợp.

Thứ tư, tạo điều kiện cho mỗi người phát huy năng lực cá nhân, từ đó khẳng định giá trị bản thân thông qua nghĩa vụ con người

Việc nghĩa vụ con người được quy định trong pháp luật một cách rõ ràng, cụ thể sẽ tạo nên cơ chế thúc đẩy các cá nhân phát huy năng lực của mình trong lao động, sản xuất. Nhà nước và cộng đồng sẽ có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi để các cá nhân thực hiện tốt nhất nghĩa vụ của mình. Chính việc thực thi nghĩa vụ làm cho con người có giá trị giữa cuộc đời. Xã hội phát triển là nhờ có nhiều cá nhân cống hiến nhiều hơn thụ hưởng. Trong cộng đồng, rất nhiều cá nhân sẵn sàng cống hiến thực thi nghĩa vụ vượt hơn yêu cầu của pháp luật. Đơn cử trong lĩnh vực môi trường, không chỉ thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ môi trường, nhiều cá nhân còn tự nguyện tham gia vào các hoạt động cải tạo môi trường như thu gom, tái chế rác thải, trồng cây gây rừng... Chính sự cống hiến này đã làm cho phẩm giá của bản thân họ được nâng cao.

Thứ năm, tạo nên sự cân bằng trong nhận thức giữa quyền con người và nghĩa vụ con người

Việc quy định nghĩa vụ con người trong pháp luật còn có ý nghĩa to lớn nhằm tạo nên sự cân bằng giữa quyền con người và nghĩa vụ con người trong nhận thức của mỗi cá nhân và nhận thức chung của cộng đồng. Pháp luật bảo vệ quyền con người, tạo điều kiện để các cá nhân thụ hưởng quyền con người. Đồng thời, pháp luật cũng phải quy định việc thực thi các nghĩa vụ con người một cách cụ thể nhằm tránh tạo ra nhận thức thiên lệch về quyền con người trong mối tương quan với nghĩa vụ con người. Nhận thức thiên lệch đó có thể gây ra nhiều hệ lụy trong xã hội khi con người chú tâm đòi hỏi quyền nhiều mà lãng quên nghĩa vụ của chính mình. Nhà nước chỉ đóng vai trò là chủ thể điều phối giữa quyền con người và nghĩa vụ con người. Nhà nước không tự mình cung cấp các quyền con người hay tự đặt ra các nghĩa vụ cho con người. Các cá nhân muốn được hưởng nhiều quyền thì buộc phải thực thi nhiều nghĩa vụ để tạo nên nguồn lực dồi dào cho xã hội. Nhà nước chỉ đóng vai trò trung gian điều phối nguồn lực này, chuyển hóa nguồn lực này thành quyền lợi cho các cá nhân, cho cộng đồng.

3. Cơ chế bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người trong pháp luật

Cơ chế bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người trong pháp luật thường được chia thành hai nhóm là cơ chế pháp lý (cơ chế nhà nước) và cơ chế xã hội. Hai cơ chế này có quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau để việc thực thi nghĩa vụ con người trong pháp luật được chính xác và hiệu quả.

3.1. Cơ chế pháp lý

Cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người trong pháp luật được hiểu là cách sắp xếp, tổ chức hoạt động của các thiết chế do Nhà nước thiết lập nhằm xác lập và bảo đảm cho các cá nhân thực thi nghĩa vụ con người một cách đầy đủ theo quy định của pháp luật. Cơ chế pháp lý bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người có cơ sở pháp lý là các quy định pháp luật về nghĩa vụ con người, kể cả những điều ước quốc tế liên quan tới nghĩa vụ con người mà Nhà nước ký kết, tham gia (nội luật hóa).

Trong các cơ chế bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người thì cơ chế pháp lý được xem là hiệu quả hơn cả. Tất cả các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến việc thực thi nghĩa vụ con người đều phải nghiêm chỉnh thực hiện các quy định pháp luật về nghĩa vụ con người. Theo tinh thần của pháp luật, từng nghĩa vụ dù nhỏ hay lớn đều cần phải có văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể, tránh nói chung chung trừu tượng, để giúp cho việc thực thi được dễ dàng, hiệu quả. Vì thế, khi quy định nghĩa vụ con người, các nhà làm luật phải nghiên cứu, bảo đảm toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật luật đó là nhất quán, không mâu thuẫn, bổ sung lẫn nhau, hỗ trợ lẫn nhau, để khi thực thi một nghĩa vụ này có thể có thêm cơ sở để thực thi nghĩa vụ khác.

Mỗi quốc gia tùy theo các giai đoạn phát triển khác nhau của mình, phù hợp với điều kiện phát triển sẽ xây dựng các cơ chế pháp lý đặc thù trong việc bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người. Cơ chế pháp lý đó sẽ liên quan đến các cơ quan xây dựng pháp luật, thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật về nghĩa vụ con người.

3.2. Cơ chế xã hội

Bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người trong pháp luật bằng cơ chế pháp lý (cơ chế nhà nước) là chủ yếu. Tuy nhiên, bên cạnh cơ chế pháp lý, một số cơ chế xã hội khác cũng có vai trò quan trọng để hỗ trợ việc thực thi nghĩa vụ con người như cơ chế đạo đức, cơ chế tín điều tôn giáo, cơ chế quy định của tổ chức không phải nhà nước, cơ chế giáo dục gia đình... Cơ chế xã hội chỉ có tính chất hỗ trợ cho cơ chế pháp lý trong việc bảo đảm thực thi nghĩa vụ con người chứ không đủ mạnh như cơ chế pháp lý.

- Cơ chế đạo đức: Để nghĩa vụ con người được thực thi đầy đủ, ai cũng cần phải được hiểu rất rõ về mối tương quan giữa quyền và nghĩa vụ. Thực tế đã chứng minh, dù có quy định chặt chẽ đến đâu, pháp luật vẫn có thể tồn tại những “kẽ hở”. Nếu chưa đủ đạo đức và nhận thức, con người sẽ có khuynh hướng lợi dụng các kẽ hở này để trốn tránh việc thực thi nghĩa vụ. Ngược lại, nếu có nhận thức đúng đắn và phẩm chất đạo đức tốt đẹp, mỗi cá nhân sẽ hình thành ý thức tự giác, tự nguyện để hoàn thành tốt nghĩa vụ của mình, thậm chí thực thi vượt hơn yêu cầu của pháp luật và xã hội.

- Cơ chế tôn giáo: Trong suốt lịch sử phát triển của xã hội loài người, vai trò của tôn giáo tác động đến đời sống của xã hội loài người luôn được khẳng định. Tín điều tôn giáo luôn là một yếu tố quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi của con người song song với pháp luật (ở các nước Hồi giáo, pháp luật lệ thuộc vào tín điều tôn giáo). Trách nhiệm của tín đồ trong các tôn giáo (cả tu sĩ và tín đồ tại gia) cũng có sự tương thích với nghĩa vụ của con người trong pháp luật. Điều lệ tôn giáo nên quy định một số nghĩa vụ của tín đồ tương tự như nghĩa vụ con người trong pháp luật bao gồm: Nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, nghĩa vụ yêu nước, nghĩa vụ bảo vệ hòa bình thế giới, nghĩa vụ tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của người khác đạo, nghĩa vụ bảo vệ môi trường, nghĩa vụ đóng góp cho cộng đồng, những hoạt động thiện nguyện, trách nhiệm tu dưỡng đạo đức... Khi tham gia một tôn giáo, tín đồ sẽ được hướng dẫn các nội quy đặc thù của tôn giáo đó, sẽ được giảng dạy về trách nhiệm (nghĩa vụ) đối với tôn giáo và đối với cộng đồng của mình. Những nội quy đó sẽ giúp cho các thành viên mới tìm thấy sự hòa nhập trong môi trường sinh hoạt tôn giáo của mình và cũng không trở thành xa cách với cộng đồng bên ngoài. Những sự thực thi nghĩa vụ chính đáng như thế sẽ giúp cho uy tín của tôn giáo được tăng lên và đóng góp cho sự thịnh vượng của cộng đồng.

- Cơ chế quy định của tổ chức không phải nhà nước: Quy định của các tổ chức không phải nhà nước là tổng thể các nội quy, điều lệ, quy tắc xử sự… do các tổ chức đặt ra để điều chỉnh những quan hệ xã hội trong nội bộ của những tổ chức đó. Nghĩa vụ của các thành viên được quy định rõ ràng và mang tính chất bắt buộc thực hiện. Một số nghĩa vụ là sự cụ thể hóa nghĩa vụ con người trong pháp luật vào trong môi trường của từng tổ chức khác nhau. Các tổ chức cũng thiết lập các cơ chế giám sát việc thực thi nghĩa vụ, thiết lập nguyên tắc phân cấp, phân quyền, các thành viên giám sát chéo và trình báo sai phạm của nhau lên cấp trên. Những tổ chức có quy mô lớn thường sẽ có bộ phận chuyên trách việc này. Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật như hệ thống camera giám sát, phần mềm trí tuệ nhân tạo để phát hiện hành vi vi phạm nghĩa vụ; áp dụng các hình thức khen thưởng - kỷ luật, trách nhiệm bồi thường luôn là một phần không thể thiếu trong cơ chế quy định của tổ chức. Quy định của các tổ chức là cầu nối đưa nghĩa vụ con người trong pháp luật vào cuộc sống, tạo điều kiện cho việc thực thi nghĩa vụ con người được tốt hơn, nhất là những lĩnh vực, phạm vi mà pháp luật không điều chỉnh. Các biện pháp kỷ luật mà quy định của các tổ chức đặt ra đối với việc vi phạm nghĩa vụ của các thành viên cũng chính là sự bổ sung quan trọng cho các chế tài của pháp luật về nghĩa vụ con người.

Xã hội ngày càng phát triển, quyền con người càng được coi trọng và đề cao thì nghĩa vụ con người, nghĩa vụ công dân càng cần được quan tâm đúng mức và đảm bảo cân bằng với nhận thức về quyền. Ở góc độ pháp lý, việc quy định của Nhà nước về quyền và cơ chế thực thi nghĩa vụ để đảm bảo con người nhận thức và thực hiện đúng và ở cấp độ cao hơn là có tinh thần cống hiến, phụng sự cho xã hội. Điều đó sẽ làm gia tăng các giá trị nhân văn của con người trong một xã hội phát triển ngày càng văn minh, giảm thiểu gánh nặng xã hội, tránh cạn kiệt nguồn lực chung của vũ trụ và xã hội. Để đạt được mục đích trên, cần vận dụng hiệu quả các cơ chế thực thi nghĩa vụ, phát huy vai trò của các cơ chế ngoài nhà nước.

Vương Tấn Việt
NCS. Đại học Luật Hà Nội

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Một số định hướng tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Trước yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung, hoàn thiện pháp luật hình sự nói riêng là yêu cầu tất yếu. Bài viết phân tích chính sách, pháp luật hình sự hiện hành và một số yêu cầu đặt ra trong bối cảnh hiện nay, từ đó, đề xuất một số định hướng hoàn thiện pháp luật hình sự đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong tố tụng hình sự Việt Nam

Xuất phát từ luận điểm quá trình tố tụng hình sự là biểu hiện của việc thực hiện quyền tư pháp trong thực tiễn, bài viết đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vấn đề này, từ đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục kiểm soát có hiệu quả quyền tư pháp trong tố tụng hình sự Việt Nam, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã chủ nghĩa ở Việt Nam thời gian tới.
Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam

Trọng tài thương mại trực tuyến có thể được coi là sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài thương mại truyền thống, đặc biệt, trong thời đại công nghệ số và phát triển nền kinh tế số, có rất nhiều hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng thương mại điện tử… Trọng tài thương mại trực tuyến là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Bài viết nghiên cứu, làm rõ về trọng tài thương mại trực tuyến; nhận diện những thách thức khi áp dụng trọng tài trực tuyến để giải quyết tranh chấp thương mại; từ đó, kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài thương mại trực tuyến trong điều kiện phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam.
Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng ngừa tiếng ồn - Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Thông qua việc phân tích, đánh giá tầm quan trọng của phòng ngừa tiếng ồn và những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật, bài viết đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều chỉnh về vấn đề này nhằm góp phần hạn chế tác động tiêu cực từ nguồn, bảo đảm quyền được sống trong môi trường trong lành của người dân theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Hoàn thiện quy định pháp luật bảo đảm việc làm bền vững trong hoạt động của công ty đa quốc gia

Việc làm bền vững là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Các công ty đa quốc gia (Multinational Enterprises - MNEs), thông qua hoạt động đầu tư, có vai trò đáng kể trong tạo việc làm, nâng cao thu nhập và thực hiện trách nhiệm xã hội doanh nghiệp. Việt Nam đã nội luật hóa nhiều tiêu chuẩn lao động quốc tế, song còn tồn tại “khoảng trống” pháp lý trong bảo đảm việc làm bền vững, đặc biệt với MNEs. Bài viết phân tích nghĩa vụ của MNEs theo pháp luật quốc tế, đánh giá bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam, từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện khung pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi người lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập.
Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Các mô hình, kinh nghiệm lập pháp của một số nước trên thế giới và khuyến nghị đối với Việt Nam

Bài viết phân tích các mô hình lập pháp và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc đổi mới quy trình lập pháp; trên cơ sở đó, liên hệ và gợi mở một số vấn đề cần tiếp tục sửa đổi để hoàn thiện mô hình, quy trình lập pháp ở Việt Nam hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua Hiến pháp năm 1946 và những giá trị được kế thừa, phát triển trong giai đoạn hiện nay

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, kết tinh giá trị của thời đại, phản ánh tư tưởng về Nhà nước pháp quyền của Hồ Chí Minh, là thành quả của công cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của toàn dân tộc. Bài viết phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, quyền công dân thể hiện qua bản Hiến pháp năm 1946 và đánh giá việc kế thừa, phát triển những tư tưởng này trong giai đoạn hiện nay.
Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bàn về luật công, luật tư trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

Bài viết nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về việc xây dựng, phân chia hệ thống pháp luật trên nền tảng của luật công, luật tư; làm rõ ý nghĩa, vai trò cơ bản của việc phân chia luật công, luật tư; từ đó, gợi mở một số giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới.
Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Hoàn thiện pháp luật về xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại

Bài viết phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý quyền tài sản được dùng bảo đảm trong hoạt động cấp tín dụng tại ngân hàng; đồng thời, làm rõ các vướng mắc, bất cập trong quy định pháp luật hiện hành, đặc biệt, khi có sự tham gia của bên thứ ba như bên tài trợ vốn, bên kiểm soát, bên đầu tư vào quyền tài sản. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật để bảo đảm cân bằng lợi ích giữa các chủ thể, đồng thời, tăng cường an toàn pháp lý cho hoạt động cấp tín dụng bảo đảm bằng quyền tài sản.
Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi