Chủ nhật 07/12/2025 10:58
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những bất cập trong các quy định của Bộ luật Hình sự về phòng, chống tham nhũng và hướng khắc phục

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Chiến lược Cải cách tư pháp đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: "xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch…, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế…"

Xuất phát từ quan điểm đúng đắn này của Đảng và Nhà nước, trong phạm vi bài viết của mình, chúng tôi muốn chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự về phòng, chống tham nhũng; phân tích, lập luận để đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định đó, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nền tư pháp dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của Đảng và sự kỳ vọng của nhân dân.

Mục A Chương XXI Bộ luật Hình sự quy định 07 tội phạm về tham nhũng, đó là: Điều 278. Tội tham ô tài sản; Điều 279. Tội nhận hối lộ; Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Điều 282. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Điều 283. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Điều 284. Tội giả mạo trong công tác.

1. Hoàn thiện quy định về tình tiết định tội

Thứ nhất, sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” trong tội tham ô tài sản (Khoản 1 Điều 278) thành “người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ” để làm rõ hơn chủ thể và đối tượng tác động của tội phạm này, tránh tình trạng hiểu không thống nhất. Vì theo quy định hiện nay sẽ có ý kiến cho rằng, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức mới phạm tội tham ô, còn những người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm đoạt tài sản của cá nhân thì không phạm tội này, dẫn đến việc khởi tố, truy tố, xét xử oan sai hoặc không thống nhất. Ngoài ra, việc sửa đổi này còn phù hợp với quy định của Hiến pháp là mọi hình thức sở hữu đều bình đẳng trước pháp luật, khắc phục tình trạng quá phân biệt đối xử giữa các hình thức sở hữu như những năm trước đây. Hơn nữa, nếu quy định “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc xử oan người vô tội. Bởi lẽ, có người tuy không “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (vì họ không có chức vụ, cũng không có quyền hạn như: người lái xe hàng theo nhiệm vụ không có người áp tải; xã viên hợp tác xã được phân công trông coi tài sản ở sân kho hợp tác…) nhưng nếu họ “chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” thì họ vẫn phạm tội tham ô. Để thống nhất trong nhận thức và trong xét xử, cần sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” trong tội tham ô tài sản (Điều 278) thành “người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ”. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283) cũng nên sửa theo hướng này; cụ thể như sau:

Điều 278. Tội tham ô tài sản (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

Điều 278. Tội tham ô tài sản (mới)

1. Người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

Thứ hai, sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào… để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ” trong tội nhận hối lộ (Khoản 1 Điều 279) thành “người nào trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác dưới bất kì hình thức nào rồi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của họ”. Việc sửa đổi này không những làm cho quy định tại Khoản 1 Điều 279 ngắn gọn hơn mà còn làm rõ hơn bản chất của tội nhận hối lộ không phải là “lợi dụng chức vụ, quyền hạn (để) nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác” mà là “đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác rồi (mới) lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của họ”; cụ thể như sau:

Điều 279. Tội nhận hối lộ (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

Điều 279. Tội nhận hối lộ (mới)

1. Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác dưới bất kì hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây rồi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

Thứ ba, sửa cụm từ “người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác” trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Khoản 1 Điều 280) thành “người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản” và bỏ cụm từ “chiếm đoạt tài sản… có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” để không những trừng trị nghiêm người phạm tội này ngay cả khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản mà còn giúp phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác cũng có hành vi “chiếm đoạt tài sản” (vì nếu quy định như hiện nay thì không thể hiểu được thủ đoạn chiếm đoạt tài sản trong tội này là gì? lén lút, công khai hay dùng vũ lực? và nó khác các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở chỗ nào? do đó không thể phân biệt được tội này với các tội phạm khác cũng có hành vi “chiếm đoạt tài sản”). Mở rộng phạm vi trừng trị tội phạm này theo hướng thay cụm từ chiếm đoạt tài sản “của người khác” bằng cụm từ “chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân”, bởi lẽ thực tế cho thấy, người phạm tội này có thể chiếm đoạt bất cứ tài sản nào, kể cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, chứ không chỉ là tài sản “của người khác”; cụ thể như sau:

Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (cũ)

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.

Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (mới)

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.

Thứ tư, bỏ cụm từ “gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” trong tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281) để vừa trừng trị nghiêm tội phạm này ngay cả khi nó chưa gây ra hậu quả, vừa giúp cho việc xử lý được thuận lợi, dễ dàng, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm chỉ vì không chứng minh được “thiệt hại” mà hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ra; cụ thể như sau:

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (cũ)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (mới)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Hoàn thiện quy định về tình tiết định khung

Thứ nhất, sửa cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng khác”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng khác” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” tại Khoản 2, 3, 4 Điều 278 - Tội tham ô tài sản thành “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” cho thống nhất, dễ áp dụng và phù hợp với quy định trong các điều luật khác như Điều 281 - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Điều 282 - Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, Điều 284 - Tội giả mạo trong công tác… Nếu quy định như hiện nay (Khoản 1 Điều 278 thì dùng thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng”, trong khi đó, Khoản 2 Điều 278 lại dùng thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng khác”) dễ dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng và khó phân biệt trường hợp phạm tội tham ô tài sản “gây hậu quả nghiêm trọng” với trường hợp phạm tội tham ô tài sản “gây hậu quả nghiêm trọng khác”.

Bổ sung cụm từ “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng” vào Khoản 2 Điều 278, “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm trọng” vào Khoản 3 Điều 278, “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” vào Khoản 4 Điều 278. Bổ sung thêm Khoản 5 Điều 278 với tình tiết định khung tăng nặng “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Những sửa đổi, bổ sung này không chỉ nhằm trừng trị nghiêm những trường hợp phạm tội nguy hiểm, thu hẹp Khoảng cách giữa mức tối đa và mức tối thiểu của khung hình phạt, mà còn đáp ứng được đòi hỏi của nguyên tắc công bằng, nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự; cụ thể như sau:

Điều 278. Tội tham ô tài sản (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

c) Đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

Điều 278. Tội tham ô tài sản (mới)

1. Người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

c) Đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Tội nhận hối lộ (Điều 279), tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội làm môi giới hối lộ (Điều 290), tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291) cũng nên sửa theo hướng này.

Thứ hai, bỏ cụm từ “gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” tại Khoản 1 Điều 281 - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì chỉ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ đã thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này. Tách tình tiết tăng nặng định khung “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại Khoản 3 Điều 281 thành hai tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” cho phù hợp với quy định trong các điều luật khác và thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội “gây hậu quả rất nghiêm trọng” thấp hơn “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, nếu quy định trong cùng một khung hình phạt là không phù hợp; cụ thể như sau:

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (cũ)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (mới)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm.

Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287), tội đào nhiệm (Điều 288), tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291) cũng nên sửa theo hướng này.

TS. Đỗ Đức Hồng Hà

CN. Nguyễn Lương Bằng

Trường Trung cấp Luật Đồng Hới

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: