Thứ sáu 13/06/2025 07:45
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những bất cập trong các quy định của Bộ luật Hình sự về phòng, chống tham nhũng và hướng khắc phục

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Chiến lược Cải cách tư pháp đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: "xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch…, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân…; phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế…"

Xuất phát từ quan điểm đúng đắn này của Đảng và Nhà nước, trong phạm vi bài viết của mình, chúng tôi muốn chỉ rõ những bất cập trong các quy định của pháp luật hình sự về phòng, chống tham nhũng; phân tích, lập luận để đưa ra phương hướng hoàn thiện các quy định đó, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng nền tư pháp dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc, đáp ứng yêu cầu của Đảng và sự kỳ vọng của nhân dân.

Mục A Chương XXI Bộ luật Hình sự quy định 07 tội phạm về tham nhũng, đó là: Điều 278. Tội tham ô tài sản; Điều 279. Tội nhận hối lộ; Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ; Điều 282. Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ; Điều 283. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Điều 284. Tội giả mạo trong công tác.

1. Hoàn thiện quy định về tình tiết định tội

Thứ nhất, sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” trong tội tham ô tài sản (Khoản 1 Điều 278) thành “người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ” để làm rõ hơn chủ thể và đối tượng tác động của tội phạm này, tránh tình trạng hiểu không thống nhất. Vì theo quy định hiện nay sẽ có ý kiến cho rằng, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức mới phạm tội tham ô, còn những người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp tư nhân chiếm đoạt tài sản của cá nhân thì không phạm tội này, dẫn đến việc khởi tố, truy tố, xét xử oan sai hoặc không thống nhất. Ngoài ra, việc sửa đổi này còn phù hợp với quy định của Hiến pháp là mọi hình thức sở hữu đều bình đẳng trước pháp luật, khắc phục tình trạng quá phân biệt đối xử giữa các hình thức sở hữu như những năm trước đây. Hơn nữa, nếu quy định “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” sẽ dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc xử oan người vô tội. Bởi lẽ, có người tuy không “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” (vì họ không có chức vụ, cũng không có quyền hạn như: người lái xe hàng theo nhiệm vụ không có người áp tải; xã viên hợp tác xã được phân công trông coi tài sản ở sân kho hợp tác…) nhưng nếu họ “chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” thì họ vẫn phạm tội tham ô. Để thống nhất trong nhận thức và trong xét xử, cần sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý” trong tội tham ô tài sản (Điều 278) thành “người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ”. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283) cũng nên sửa theo hướng này; cụ thể như sau:

Điều 278. Tội tham ô tài sản (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

Điều 278. Tội tham ô tài sản (mới)

1. Người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

Thứ hai, sửa cụm từ “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào… để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ” trong tội nhận hối lộ (Khoản 1 Điều 279) thành “người nào trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác dưới bất kì hình thức nào rồi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của họ”. Việc sửa đổi này không những làm cho quy định tại Khoản 1 Điều 279 ngắn gọn hơn mà còn làm rõ hơn bản chất của tội nhận hối lộ không phải là “lợi dụng chức vụ, quyền hạn (để) nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác” mà là “đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác rồi (mới) lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của họ”; cụ thể như sau:

Điều 279. Tội nhận hối lộ (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kì hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây để làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm

Điều 279. Tội nhận hối lộ (mới)

1. Người nào trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận lợi ích vật chất của người khác dưới bất kì hình thức nào có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới mười triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây rồi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm hoặc không làm một việc theo yêu cầu của họ, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

Thứ ba, sửa cụm từ “người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác” trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Khoản 1 Điều 280) thành “người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản” và bỏ cụm từ “chiếm đoạt tài sản… có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm” để không những trừng trị nghiêm người phạm tội này ngay cả khi họ chưa chiếm đoạt được tài sản mà còn giúp phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác cũng có hành vi “chiếm đoạt tài sản” (vì nếu quy định như hiện nay thì không thể hiểu được thủ đoạn chiếm đoạt tài sản trong tội này là gì? lén lút, công khai hay dùng vũ lực? và nó khác các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt ở chỗ nào? do đó không thể phân biệt được tội này với các tội phạm khác cũng có hành vi “chiếm đoạt tài sản”). Mở rộng phạm vi trừng trị tội phạm này theo hướng thay cụm từ chiếm đoạt tài sản “của người khác” bằng cụm từ “chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân”, bởi lẽ thực tế cho thấy, người phạm tội này có thể chiếm đoạt bất cứ tài sản nào, kể cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức và của cá nhân, chứ không chỉ là tài sản “của người khác”; cụ thể như sau:

Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (cũ)

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.

Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (mới)

1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.

Thứ tư, bỏ cụm từ “gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” trong tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (Điều 281) để vừa trừng trị nghiêm tội phạm này ngay cả khi nó chưa gây ra hậu quả, vừa giúp cho việc xử lý được thuận lợi, dễ dàng, tránh tình trạng bỏ lọt tội phạm chỉ vì không chứng minh được “thiệt hại” mà hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ra; cụ thể như sau:

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (cũ)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (mới)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Hoàn thiện quy định về tình tiết định khung

Thứ nhất, sửa cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng khác”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng khác” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác” tại Khoản 2, 3, 4 Điều 278 - Tội tham ô tài sản thành “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” cho thống nhất, dễ áp dụng và phù hợp với quy định trong các điều luật khác như Điều 281 - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, Điều 282 - Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ, Điều 284 - Tội giả mạo trong công tác… Nếu quy định như hiện nay (Khoản 1 Điều 278 thì dùng thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng”, trong khi đó, Khoản 2 Điều 278 lại dùng thuật ngữ “gây hậu quả nghiêm trọng khác”) dễ dẫn đến khó hiểu, khó áp dụng và khó phân biệt trường hợp phạm tội tham ô tài sản “gây hậu quả nghiêm trọng” với trường hợp phạm tội tham ô tài sản “gây hậu quả nghiêm trọng khác”.

Bổ sung cụm từ “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng” vào Khoản 2 Điều 278, “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm trọng” vào Khoản 3 Điều 278, “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” vào Khoản 4 Điều 278. Bổ sung thêm Khoản 5 Điều 278 với tình tiết định khung tăng nặng “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Những sửa đổi, bổ sung này không chỉ nhằm trừng trị nghiêm những trường hợp phạm tội nguy hiểm, thu hẹp Khoảng cách giữa mức tối đa và mức tối thiểu của khung hình phạt, mà còn đáp ứng được đòi hỏi của nguyên tắc công bằng, nguyên tắc pháp chế và nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự; cụ thể như sau:

Điều 278. Tội tham ô tài sản (cũ)

1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

c) Đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.

Điều 278. Tội tham ô tài sản (mới)

1. Người nào chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của tổ chức hoặc của cá nhân mà mình có trách nhiệm quản lý trên cơ sở chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm:

a) Gây hậu quả nghiêm trọng;

b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm;

c) Đã bị kết án về một trong các tội qui định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

c) Phạm tội nhiều lần;

d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

đ) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng nhưng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.

Tội nhận hối lộ (Điều 279), tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản (Điều 280), tội đưa hối lộ (Điều 289), tội làm môi giới hối lộ (Điều 290), tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291) cũng nên sửa theo hướng này.

Thứ hai, bỏ cụm từ “gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân” tại Khoản 1 Điều 281 - Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì chỉ hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ đã thể hiện đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm này. Tách tình tiết tăng nặng định khung “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng” tại Khoản 3 Điều 281 thành hai tình tiết “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” cho phù hợp với quy định trong các điều luật khác và thể hiện rõ nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình sự. Bởi lẽ, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội “gây hậu quả rất nghiêm trọng” thấp hơn “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”, nếu quy định trong cùng một khung hình phạt là không phù hợp; cụ thể như sau:

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (cũ)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

Điều 281. Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ (mới)

1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Phạm tội nhiều lần;

c) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm.

4. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm.

Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ (Điều 282), tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi (Điều 283), tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285), tội vô ý làm lộ bí mật công tác; tội làm mất tài liệu bí mật công tác (Điều 287), tội đào nhiệm (Điều 288), tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi (Điều 291) cũng nên sửa theo hướng này.

TS. Đỗ Đức Hồng Hà

CN. Nguyễn Lương Bằng

Trường Trung cấp Luật Đồng Hới

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Bàn về các xu hướng phát triển của pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Các xu hướng phát triển pháp luật là biểu hiện các quy luật phát triển pháp luật có ý nghĩa phương pháp luận, lý luận và thực tiễn quan trọng, gắn liền với việc xây dựng chiến lược phát triển pháp luật ở nước ta; các xu hướng phát triển pháp luật chịu sự tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau. Bài viết nghiên cứu, tìm hiểu các xu hướng phát triển pháp luật Việt Nam trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm