Thứ sáu 20/06/2025 17:11
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Những điểm mới trong khái niệm tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015

Tóm tắt: Qua việc phân tích các điểm mới trong khái niệm tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 2015,tác giả bài viết chỉ ra một số vấn đề cần phải bàn luận và đề xuất một số góp ý nhằm hoàn thiện khái niệm tội phạm.

Abstract: By analyzing new points in the definition of crime according to the Penal Code in 2015, the author has pointed out some issues need to be discussed and proposed a number of suggestions for perfecting the definition of crime.

Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015) được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015 với rất nhiều điểm mới, trong đó đáng chú ý là những sửa đổi, bổ sung về khái niệm tội phạm. Đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất của luật hình sự bởi lẽ, nội dung của khái niệm tội phạm “thể hiện rõ nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý của luật hình sự”[1]. Đồng thời,nó còn “được xem như là điều kiện cần thiết có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải tội phạm, giữa trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác”[2]. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về những điểm mới cũng như những nội dung trong khái niệm tội phạm không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm của Đảng và Nhà nước ta. Điều đó thể hiện ở một số nội dung cụ thể như sau:

Thứ nhất, về khách thể của tội phạm

Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”[3].

So với khái niệm tội phạm của các Bộ luật Hình sự trước đó thì khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm “quyền con người” vào các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Sự bổ sung này là nhằm cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 (Điều 3 và chương II). Cụ thể tại Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[4]. Như vậy, khi Hiến pháp (luật gốc) đã xác định quyền con người là một trong những quyền cơ bản và cần được bảo vệ thì Bộ luật Hình sự (một trong những luật chuyên ngành, là sự cụ thể hóa luật gốc) bổ sung thêm quyền con người vào các quan hệ xã hội cần được bảo vệ là hoàn toàn phù hợp.

Thứ hai, về chủ thể của tội phạm

Nếu như trong các Bộ luật Hình sự trước đây chỉ quy định duy nhất một chủ thể của tội phạm đó là con người thì đến Bộ luật Hình sự năm 2015, chủ thể của tội phạm đã được mở rộng hơn, bao gồm cả: con người và pháp nhân thương mại. Vậy, pháp nhân thương mại là gì? Tại sao Bộ luật Hình sự lại quy định mở rộng chủ thể của tội phạm bao gồm cả pháp nhân thương mại? Theo Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên...”[5]. Quy định trên cho thấy, pháp nhân thương mại trước hết phải là pháp nhân được thành lập và hoạt động theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như Luật Doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật có liên quan nhưng có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Tuy nhiên, khi pháp nhân thương mại thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm hại đến các quan hệ xã hội được Nhà nước và pháp luật bảo vệ thì pháp nhân thương mại đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều đó có nghĩa, pháp nhân thương mại cũng là một trong những chủ thể của tội phạm. Và sự mở rộng về chủ thể của tội phạm này xuất phát từ những lý do sau đây:

Một là, xuất phát từ tình hình vi phạm pháp luật do pháp nhân thương mại thực hiện diễn ra trong những năm qua ngày càng phức tạp và nghiêm trọng. Đặc biệt là các hành vi gây ô nhiễm môi trường, buôn lậu, trốn thuế, sản xuất, vận chuyển, buôn bán hàng giả, hàng cấm, trốn đóng bảo hiểm cho người lao động... Những hành vi vi phạm pháp luật nói trên đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội và có tính chất, mức độ nguy hiểm như tội phạm nhưng do chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự nên không thể xử lý hình sự với những pháp nhân thương mại đó mà chỉ có thể xem xét xử phạt vi phạm hành chính hoặc nhắc nhở yêu cầu sửa chữa, khắc phục hậuquả.

Ví dụ: Năm 2008, Công ty trách nhiệm hữu hạn Vedan có vốn đầu tư nước ngoài (Đài Loan) thực hiện hành vi gian lận tinh vi trong việc xả chất thải chưa qua xử lý ra sông Thị Vải - Đồng Nai, gây ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân ven sông Thị Vải… Nhưng áp dụng vào quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 thì không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại Vedan (do Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại) nên chỉ có thể xử lý pháp nhân thương mại này bằng biện pháp xử phạt hành chính. Như vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính với pháp nhân thương mại Vedan là chưa thích đáng so với hậu quả mà Vedan đã gây ra cho môi trường và xã hội cũng như chưa đủ sức răn đe đối với các pháp nhân thương mại khác.

Hai là, về cơ chế xử phạt vi phạm hành chính và bồi thường thiệt hại áp dụng đối với pháp nhân thương mại vi phạm trên thực tế chưa thực sự hiệu quả, còn nhiều bất cập,gây khó khăn cho người dân - đối tượng bị thiệt hại. Bởi vì, họ không thể thực hiện được nghĩa vụ tự chứng minh những thiệt hại mà pháp nhân thương mại đã gây ra cho mình trong thủ tục đòi bồi thường thiệt hại theo pháp luật dân sự, trong khi cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính lại không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm cũng như hậu quả của vi phạm. Như vậy, việc xử phạt vi phạm hành chính đối với pháp nhân thương mại vi phạm trên thực tế chưa đạt được hiệu quả thiết thực.

Ví dụ: Tháng 4/2016, Công ty trách nhiệm hữu hạn Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh-FHS có hành vi hủy hoại môi trường biển Việt Nam, bằng việc xả chất thải có chứa độc tố là nguyên nhân làm cho hải sản và sinh vật biển chết hàng loạt, nhất là ở tầng đáy, gây ảnh hưởng rất lớn đến ngư dân và các doanh nhiệp hoạt động du lịch biển. Do đó, người dân đã khởi kiện Formosa để đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, để yêu cầu pháp nhân thương mại Formosa bồi thường thì bên khởi kiện phải chứng minh được thiệt hại do cá chết hàng loạt đã ảnh hưởng đến mình như thế nào. Đây là một khó khăn lớn đối với người dân bởi ngoài những thiệt hại có thể định lượng được thông qua những hóa đơn, chứng từ như: những thống kê về các các hư hỏng của tàu, thuyền; các chi phí chuyển đổi nghề nghiệp, các giấy tờ nằm viện, chi phí điều trị, toa thuốc do ăn phải cá chết… thì còn những giao dịch buôn bán nhỏ lẻ không có hóa đơn, chứng từ khác người dân sẽ không chứng minh được. Hơn nữa những thiệt hại trong tương lai như biển có trong sạch trở lại để người dân tiếp tục sinh sống bằng nghề đánh bắt cá hay không lại là một vấn đề không nói trước được. Vì vậy, để đòi bồi thường thiệt hại đối với pháp nhân thương mại Formosa, người dân phải dựa vào các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính. Tuy nhiên, các cơ quan này lại không có đội ngũ cán bộ chuyên trách để điều tra, chứng minh vi phạm của pháp nhân thương mại Formosa mà phải nhờ đến các chuyên gia của nước ngoài phân tích và cung cấp số liệu mới đưa ra được kết luận cuối cùng. Như vậy, về cơ bản, cơ chế xử phạt hành chính với pháp nhân thương mại Formosa chưa thực sự hiệu quả.

Ba là, khi xem xét các quy định của Luật Doanh nghiệp cũng như một số luật khác có liên quan đến pháp nhân thương mại, chúng tôi thấy rằng: Nhiều quyết định quan trọng của pháp nhân thương mại là doanh nghiệp phải do tập thể thông qua (ví dụ: đối với công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là Hội đồng thành viên; đối với công ty cổ phần là Hội đồng quản trị…). Vì vậy, nếu pháp nhân thương mại nói trên thực hiện hành vi vi phạm pháp luật có tính chất tội phạm thì chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không thể là một cá nhân nào đó mà phải là cả một tập thể, một doanh nghiệp mà đại diện là những người đứng đầu pháp nhân thương mại như Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị. Do đó, nếu áp dụng theo Bộ luật Hình sự năm 1999 sẽ không thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại. Ngoài ra, thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự cho thấy, đối với một số tội như: Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm (Điều 190); Tội trốn thuế (Điều 200); Tội gây ô nhiễm môi trường (Điều 235) quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015… nếu là cá nhân có hành vi vi phạm thì sẽ bị xử lý hình sự, trong khi đó nếu là pháp nhân cũng thực hiện các hành vi vi phạm nêu trên, thậm chí sẽ ở những quy mô và mức độ nghiêm trọng hơn rất nhiều lần cá nhân thì không xử lý được về hình sự. Điều đó sẽ gây ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như ngăn ngừa tội phạm mới ở nước ta.

Bốn là, hiện nay, trên thế giới có 120 nước đã quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân như: Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ, Canada, Australia, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Phần Lan, Vương quốc Bỉ, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Slovakia,… và 06 quốc gia thuộc khối ASEAN, gồm: Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philipin, Indonexia và Campuchia. Do đó, việc nước ta quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại là tạo ra sự bình đẳng giữa doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài đầu tư với doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam đầu tư. Bởi cùng một hành vi vi phạm nghiêm trọng tương tự nhau nhưng doanh nghiệp Việt Nam hoạt động ở nước ngoài thì bị xử lý hình sự theo pháp luật của nước sở tại, còn đối với doanh nghiệp Việt Nam lẫn doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở nước ta vi phạm lại chỉ bị xử phạt hành chính. Như vậy là bất bình đẳng.

Năm là, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại chính là việc nội luật hóa các Công ước quốc tế mà Việt nam là thành viên, trong đó đặc biệt lưu ý đến Công ước Liên Hiệp quốc về phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia (Công ước TOC). Theo Công ước này, yêu cầu tất cả quốc gia thành viên áp dụng những biện pháp cần thiết để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc tham gia vào các nhóm tội phạm nghiêm trọng… gồm hành vi tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức, rửa tiền, cản trở công lý mà trách nhiệm pháp lý ở đây có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay hành chính. Do đó, để thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả Công ước TOC nói riêng cũng như các điều ước Quốc tế mà Việt Nam đã tham gia nói chung thì Việt Nam cần phải quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại.

Từ những lý do trên đây, khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được ban hành, các nhà làm luật đã bổ sung thêm quy định về truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại để kịp thời khắc phục những bất cập nêu trên và điều chỉnh các vi phạm pháp luật nghiêm trọng do pháp nhân thương mại gây ra trong giai đoạn hiện nay là hoàn toàn phù hợp.

Thứ ba, về hậu quả pháp lý của tội phạm

Trong khái niệm tội phạm của Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định về tính phải bị xử lý hình sự nhưng dưới góc độ khoa học pháp lý khi phân tích về tội phạm thì tính phải bị xử lý hình sự vẫn mặc nhiên được thừa nhận (trong nhiều nghiên cứu khoa học sử dụng “tính phải chịu hình phạt”). Bởi lẽ, xuất phát từ mỗi quy định về phần các tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bao giờ cũng có quy định về hình phạt tương ứng kèm theo hoặc các biện pháp xử lý hình sự khác. Có nghĩa, chỉ có tội phạm mới “phải bị xử lý hình sự” hay “phải bị xử lý hình sự” chỉ gắn liền với tội phạm. Do đó, rõ ràng “phải bị xử lý hình sự” là một dấu hiệu (về hậu quả pháp lý) của tội phạm và việc Bộ luật Hình sự năm 1999 không khái quát dấu hiệu này trong khái niệm tội phạm là chưa phản ánh đầy đủ thực tiễn khách quan. Đây là một điểm hạn chế của Bộ luật Hình sự năm 1999 và khi Bộ luật Hình sự năm 2015 được ban hành thì các nhà làm luật mới khắc phục hạn chế đó bằng cách tạo ra cơ sở pháp lý khẳng định tội phạm phải bị xử lý hình sự là một dấu hiệu của tội phạm nhằm nhấn mạnh tính răn đe, phòng ngừa, giáo dục, ngăn ngừa tội phạm mới cũng như khẳng định tính tất yếu khách quan của quy định này.

Như vậy, so với Bộ luật Hình sự năm 1999, khái niệm tội phạm trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều điểm mới bổ sung theo hướng chặt chẽ, khoa học và phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu và phân tích một cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc nội dung của khái niệm tội phạm cũng như xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy rằng còn một số điều cần phải bàn như sau:

Một là, pháp luật hình sự đã quy định về “Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm”, thì đương nhiên hành vi nguy hiểm cho xã hội đó phải được hiểu là nó đã xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ (Chủ quyền quốc gia, an ninh của đất nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người, quyền công dân, quyền bình đẳng giữa đồng bào các dân tộc, lợi ích của Nhà nước, tổ chức, trật tự pháp luật...được quy định rất cụ thể tại Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 2015). Và như vậy, nếu không có hành vi nguy hiểm nào xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì không có tội phạm xảy ra. Do đó, khi đề cập hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là đã bao trùm cả sự xâm phạm của hành vi đó vào các quan hệ xã hội cần bảo vệ của luật hình sự. Vì vậy, việc các nhà làm luật quy định lại các quan hệ xã hội nói trêntrong khái niệm tội phạm tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 là việc làm không cần thiết.

Hai là, Bộ luật Hình sự Việt Nam không quy định thế nào là năng lực trách nhiệm hình sự mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, đó là: “Người ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”[6].

Từ quy định này, dưới góc độ khoa học có thể hiểu: Năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của con người. Như vậy, có thể rút ra định nghĩa về người có năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi do mình thực hiện và có khả năng điều khiển được hành vi ấy”. Nghĩa là: Người có năng lực trách nhiệm hình sự phải là người có đầy đủ cả hai khả năng: Khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm của hành vi mà họ thực hiện và khả năng điều khiển hành vi theo ý chí của mình.

Trong khi đó, dưới góc độ khoa học pháp lý, lỗi được hiểu là: “Thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”[7]. Mà thái độ tâm lí của con người bao gồm hai yếu tố lí trí và ý chí - là những yếu tố cần thiết để hợp thành lỗi. Trong đó, lí trí phản ánh khả nhận thức thực tại khách quan của con người còn ý chí phản ánh khả năng điều khiển hành vi trên cơ sở của sự nhận thức đó. Đây là “những yếu tố tâm lí cần thiết của mọi hành động có ý thức của con người”[8]. Nội dung của những yếu tố này cũng chính là những điều kiện bắt buộc để tạo thành năng lực trách nhiệm hình sự.

Vậy, giữa hai dấu hiệu: Năng lực trách nhiệm hình sự và lỗi có mối quan hệ mật thiết, mang tính nhân quả với nhau: Phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự mới có thể thực hiện một hành vi có lỗi và ngược lại khi nói đến hành vi có lỗi thì bao giờ cũng được thực hiện bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, khi một người được coi là có lỗi đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như đối với hậu quả do hành vi đó gây ra thì đương nhiên họ phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Chính vì thế, khi tính có lỗi đã được quy định trong khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đặc điểm của tội phạm rồi thì nhà làm luật không cần phải quy định tính có năng lực trách nhiệm hình sự của chủ thể vào trong khái niệm này nữa. Quy định như vậy sẽ làm cho nội dung khái niệm của tội phạm trở nên rườm rà và chưa đảm bảo tính khoa học.

Từ sự phân tích trên, chúng tôi thấy rằng cần xây dựng lại khái niệm tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do con người hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý và phải bị xử lý hình sự.

ThS. Nguyễn Thị Vân

Học viện Chính trị Công an nhân dân


[1] GS.TSKH. Đào Trí úc (Chủ biên), “Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994, tr. 157.

[2] PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà, “Tội phạm trong luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội 1991, tr. 9.

[3] Khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[4] Điều 3 và chương II của Hiến pháp năm 2013.

[5] Điều 75Bộ luật Dân sự năm 2015.

[6] Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam”, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, tr. 128.

[8] GS. TS Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam”, Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội năm 2006, tr. 128.



In bài viết Gửi phản hồi

Các tin khác

Bàn về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm mua bán người trong bối cảnh hội nhập quốc tế Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào hiện nay Đưa Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” vào cuộc sống theo lời Bác Hồ Một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong Dự thảo Luật Hợp tác xã Những vấn đề cần chứng minh trong tố tụng hành chính Công tác phòng, chống tình trạng người Việt Nam sang Căm-Pu-Chia đánh bạc thực trạng và giải pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm