Chủ nhật 07/12/2025 14:27
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam và nhu cầu hoàn thiện

Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta hiện nay đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống, đòi hỏi cần hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, bài viết đã nêu lên nhu cầu hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta hiện nay với các vấn đề chủ yếu: Thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước; thực hiện các cam kết pháp quốc tế; khắc phục những hạn chế của hệ thông pháp luật trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; luật hóa các nội dung trợ giúp xã hội và công tác xã hội; đổi mới cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp với nền kinh tế thị trường.

Hệ thống pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam đã bước đầu tạo thành khuôn khổ pháp lý quan trọng cho việc trợ giúp xã hội đối với một số nhóm trẻ em gặp hoàn cảnh đặc biệt về thể chất, tinh thần, điều kiện sống hoặc gặp các rủi ro, hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, hướng tới bảo đảm cho những trẻ em này có cơ hội phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và trí tuệ, là chủ nhân tương lai của đất nước. Tuy nhiên, với sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các quan hệ xã hội trong lĩnh vực trợ giúp trẻ em, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta đã bộc lộ nhiều nội dung bất cập, không còn phù hợp với thực tế cuộc sống. Bởi vậy, việc nghiên cứu để chỉ ra các nhu cầu hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt trong tình hình hiện nay, khi mà chúng ta đang tích cực triển khai Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, tiếp tục hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng đất nước giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và tổng kết tình hình thực tiễn, nhu cầu hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta hiện nay được xác định bao gồm các vấn đề chủ yếu sau đây:

1. Thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước

Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán quan điểm coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước, trong đó trẻ em là hạnh phúc của mọi gia đình và tương lai của đất nước, của dân tộc. Các hệ thống quan điểm đó được thể hiện tập trung trong các văn kiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX, X, XI và XII là: “Bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em, tạo môi trường để trẻ em được phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Chú trọng bảo vệ và chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em gia đình nghèo, trẻ em vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn; ngăn chặn và đẩy lùi các nguy cơ xâm hại trẻ em. Nhân rộng các mô hình làm tốt việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em dựa vào cộng đồng... Tạo bước tiến rõ rệt về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, giảm tỉ lệ hộ nghèo; cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân”[1]. Để chăm lo đời sống các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, trong đó có trẻ em, góp phần ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội bền vững, cần “thu hút, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực và sức sáng tạo của nhân dân. Chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, giải quyết tốt những vấn đề bức thiết; tăng cường quản lý phát triển xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội và giảm nghèo bền vững”[2]. Các chủ trương, đường lối của Đảng là cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam. Vì vậy, việc thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta là nhu cầu, đòi hỏi khách quan đối với việc đổi mới, hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

2. Thực hiện các cam kết pháp lý quốc tế

Việt Nam đã tham gia, phê chuẩn và công nhận nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của trẻ em, Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền của người khuyết tật, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa... Các văn bản pháp lý quốc tế này đã ghi nhận quyền an sinh xã hội của trẻ em rất cụ thể. Mọi người đều có quyền được hưởng tất cả các quyền và tự do nêu ra trong các văn kiện đó mà không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử nào như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã hội, tài sản, xuất thân gia đình hoặc các mối tương quan khác. Nhu cầu chăm sóc đặc biệt trẻ em đã được khẳng định trong Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em, trong Tuyên ngôn về quyền trẻ em do Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ngày 20/11/1959 và đã được thừa nhận trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, trong những điều lệ và văn kiện có liên quan khác của các cơ quan chuyên môn, các tổ chức quốc tế liên quan đến phúc lợi của trẻ em... Điều 9 Công ước Quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa của Liên Hiệp Quốc ghi nhận: “Mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội”. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã cam kết với các quốc gia tham gia công ước này, trách nhiệm pháp lý quốc tế của mình trong việc đảm bảo quyền hưởng an sinh xã hội, quyền trợ giúp xã hội của công dân và trẻ em Việt Nam. Các văn bản pháp lý nêu trên đã chỉ ra rằng, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, trẻ em cần được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời.

Việc bảo trợ xã hội, nuôi con nuôi trong nước và nước ngoài cũng đã được quy định rất rõ ở Tuyên bố về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên Hợp Quốc về quản lý tư pháp người chưa thành niên (Quy tắc Bắc Kinh) và Tuyên ngôn về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong trường hợp khẩn cấp hoặc xung đột vũ trang. Lời mở đầu của Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em quy định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt... Ở tất cả các quốc gia trên thế giới có những trẻ em sống trong các điều kiện đặc biệt khó khăn và những trẻ em như vậy cần được quan tâm đặc biệt”. Như vậy, các văn bản pháp lý của quốc tế liên quan đến trẻ em đều thống nhất quan niệm, nhận thức về sự cần thiết bảo vệ, chăm sóc, trợ giúp cho các nhóm trẻ em có hoàn cảnh khó khăn vì cả những lý do khách quan và chủ quan. Để khẳng định và đảm bảo thực thi trên thực tiễn quyền trợ giúp xã hội của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt đúng như nghĩa vụ pháp lý quốc tế mà Nhà nước ta đã cam kết thì việc hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay là đòi hỏi khách quan trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa.

3. Khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt

Pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam hiện nay gồm ba bộ phận cấu thành: Pháp luật về trợ giúp xã hội thường xuyên; pháp luật về trợ giúp xã hội đột xuất và pháp luật về chăm sóc xã hội. Thực tế cho thấy, pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế đòi hỏi phải được hoàn thiện, bổ sung như:

Về kỹ thuật lập pháp, còn thiếu tính đồng bộ, số lượng văn bản ban hành nhiều, nhưng hiệu lực pháp lý có giá trị cao nhất là Nghị định quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật được ban hành mang tính chắp vá, thiếu tính dự báo, chưa xây dựng được chương trình tổng thể về hệ thống trợ giúp xã hội ở Việt Nam. Phạm vi đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được thụ hưởng chế độ trợ giúp xã hội còn hạn chế. Nhiều nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt chưa được trợ giúp phù hợp với nhu cầu và đặc điểm về thể chất, tinh thần, điều kiện sống. Các chế độ trợ giúp xã hội còn ở mức thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của đối tượng, chưa phù hợp với điều kiện giá cả sinh hoạt.

Về thực tiễn thực hiện, số nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hưởng chế độ trợ giúp xã hội còn thấp. Theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thì trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bao gồm trẻ em mồ côi không nơi nương tựa, trẻ em bị bỏ rơi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em phải làm việc nặng nhọc, nguy hiểm, tiếp xúc với chất độc hại; trẻ em phải làm việc xa gia đình; trẻ em lang thang; trẻ em bị xâm hại tình dục; trẻ em nghiện ma tuý; trẻ em vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội thì chỉ một nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, bao gồm: Trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn nuôi dưỡng, gồm trẻ em bị bỏ rơi chưa có người nhận làm con nuôi; mồ côi cả cha và mẹ; mồ côi cha hoặc mẹ và người còn lại mất tích theo quy định của pháp luật; trẻ em bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo; trẻ em khuyết tật nặng, đặc biệt nặng là đối tượng bảo trợ xã hội mới được hưởng chế độ trợ giúp xã hội. Như vậy, các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được hưởng chế độ trợ giúp xã hội có phạm vi rất hẹp so với khái niệm các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được quy định tại Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Bên cạnh đó, nguồn lực dành cho trợ giúp xã hội còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu trợ giúp cho các nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hiện nay đã trở nên bất cập, không huy động được sự tham gia của khu vực tư nhân, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội dân sự, không tạo môi trường bình đẳng cạnh tranh giữa cơ sở cung cấp dịch vụ công lập và ngoài công lập, phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường. Công tác quản lý, tổ chức thực hiện vừa lỏng lẻo, vừa chồng chéo. Hệ thống cơ sở dữ liệu về trợ giúp xã hội vừa nghèo nàn, vừa không cập nhật...

Những bất cập ở trên cũng chính là nhu cầu hoàn thiện pháp luật về trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở Việt Nam trong thời gian tới.

4. Cần luật hóa các nội dung trợ giúp xã hội và công tác xã hội

a. Đối với các nội dung trợ giúp xã hội

Đất nước ta trải qua nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, lại bị ảnh hưởng nặng nề bởi hậu quả của thiên tai và biến đổi khí hậu, hiện tại đang trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa nhanh nên hiện nay số người cần trợ giúp xã hội rất lớn, chiếm hơn 20% dân số cả nước, trong đó có hàng triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em là nạn nhân bị bạo lực, bạo hành, bị xâm hại, bị ngược đãi, bị buôn bán, bị xâm hại hoặc lang thang kiếm sống trên đường phố... Trong giai đoạn vừa qua, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp xã hội đã được ban hành như Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP; Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Nghị định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội; Nghị định số 81/2012/NĐ-CP ngày 08/10/2012 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 68/2008/NĐ-CP... Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật về trợ giúp xã hội mới chỉ dừng ở mức độ Nghị định, với tầm hiệu lực điều chỉnh hạn chế. Hệ thống quy phạm pháp luật tản mát ở nhiều văn bản khác nhau, điều chỉnh nhiều nội dung, thậm chí chồng chéo, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện, dẫn đến hiệu quả thực thi còn thấp. Luật hóa trợ giúp xã hội đang trở thành nhu cầu bức xúc nhằm tạo ra hành lang pháp lý ổn định, góp phần mở rộng đối tượng hưởng trợ giúp xã hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả trợ giúp xã hội, góp phần xây dựng nền an sinh tiên tiến. Luật hóa trợ giúp xã hội cần tập trung vào các nội dung về trợ giúp xã hội thường xuyên tại cộng đồng, trợ giúp khẩn cấp, chăm sóc xã hội, quản lý, quy hoạch các cơ sở trợ giúp xã hội.

b. Đối với các nội dung công tác xã hội

Công tác xã hội là một nghề, một hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Công tác xã hội can thiệp vào cuộc sống của trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em khuyết tật, trẻ em thuộc hộ nghèo và cận nghèo, cá nhân, nhóm đối tượng xã hội, cộng đồng và các thành phần xã hội nhằm hỗ trợ họ thay đổi, giải quyết các vấn đề và nâng cao an sinh xã hội. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 32/QĐ-TTg ngày 25/3/2010 phê duyệt Đề án phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020. Đây là văn bản đặt nền móng cho quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý thúc đẩy các hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp. Đến nay, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về công tác xã hội đã được ban hành quy định chức danh, mã số, tiêu chuẩn các chức danh nghề nghiệp viên chức công tác xã hội; tiêu chuẩn chăm sóc trợ giúp đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội; tiêu chuẩn cộng tác viên công tác xã hội cấp xã; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của trung tâm công tác xã hội; quản lý trường hợp.

Vì công tác xã hội mới bước đầu hình thành ở Việt Nam trong một thời gian ngắn, những nội dung pháp luật quy định về công tác xã hội còn chung chung, chưa cụ thể, chưa rõ ràng (đặc biệt là liên quan đến vị trí, vai trò, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và các chính sách bảo đảm, hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội, dịch vụ công tác xã hội), nhiều nội dung chưa được quy định. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật quy định có liên quan về công tác xã hội có hình thức cao nhất là Nghị định, các nội dung về công tác xã hội chưa được luật hóa. Do vậy, các hành lang, khuôn khổ pháp lý thiếu hụt không đảm bảo các điều kiện, cơ chế cần thiết để thúc đẩy công tác xã hội chuyên nghiệp ở nước ta hiện nay.

Ở Việt Nam, ước tính có khoảng 30% dân số có nhu cầu sử dụng dịch vụ công tác xã hội, trong đó gồm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, trẻ em khuyết tật, trẻ em thuộc hộ gia đình nghèo, trẻ em nhiễm HIV, người nghiện ma tuý, đối tượng bảo trợ xã hội thuộc diện hưởng trợ cấp hàng tháng, trẻ em là nạn nhân bạo lực, bị bạo hành; trẻ em bị xâm hại, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em bị sao nhãng. Trẻ em ở các vùng nghèo, vùng khó khăn, hay xảy ra thiên tai bão lụt, điều kiện sống rất khó khăn và hàng ngàn xã đặc biệt khó khăn, có vấn đề xã hội (tệ nạn xã hội, cuộc sống nghèo khổ); hàng triệu cá nhân, gia đình, nhóm xã hội nảy sinh các vấn đề xã hội (ly thân, ly hôn, sao nhãng việc chăm sóc, giáo dục con cái, căng thẳng vì nghèo khổ, bị xâm hại tình dục, bỏ nhà đi lang thang, tệ cờ bạc, trộm cắp, tội phạm...). Ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canada, Newzealand, Philipine..., công tác xã hội có luật riêng để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực này; có nhiều điều luật nằm xen kẽ trong các đạo luật hoặc luật chuyên ngành. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế, việc luật hóa các nội dung công tác xã hội là nhu cầu hết sức cần thiết.

5. Đổi mới cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt phù hợp với nền kinh tế thị trường

Trong giai đoạn vừa qua, cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta được xây dựng theo cách tiếp cận bảo trợ xã hội, trên cơ sở cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được xây dựng trên nền tảng cơ chế này đã không tạo được động lực thúc đẩy sự tham gia của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp và khu vực tư nhân tham gia các hoạt động cung cấp dịch vụ chăm sóc xã hội.

Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, vai trò của Nhà nước, tổ chức, cộng đồng và cá nhân đã có những thay đổi căn bản trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ cho các nhóm người dân yếu thế và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Với vai trò mới, Nhà nước có trách nhiệm tạo lập thể chế, cơ sở hạ tầng và an ninh, còn cộng đồng, các tổ chức, cá nhân mới là chủ thể trực tiếp tham gia các chương trình, hoạt động cung cấp dịch vụ và trợ giúp xã hội cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt bằng sự tích cực và chủ động của mình. Thông qua những cơ chế phù hợp, Nhà nước có thể tạo động lực cho cộng đồng, tổ chức, cá nhân phát huy tiềm năng, năng lực và huy động mọi nguồn lực xã hội vào các chương trình cung cấp dịch vụ và trợ giúp cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.

Vì vậy, việc đổi mới cơ chế trợ giúp xã hội đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt ở nước ta theo cách tiếp cận quyền con người, quyền của trẻ em phù hợp với nền kinh tế thị trường trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.

Tô Đức

Cục Bảo trợ xã hội, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội

Tài liệu tham khảo:

[1]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

[2]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng.

In bài viết Gửi phản hồi

Các tin khác

Bàn về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tài sản gây ra thiệt hại Hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh với tội phạm mua bán người trong bối cảnh hội nhập quốc tế Một số vấn đề về quản lý và sử dụng đất ở Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào hiện nay Đưa Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” vào cuộc sống theo lời Bác Hồ Một số vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau trong Dự thảo Luật Hợp tác xã Những vấn đề cần chứng minh trong tố tụng hành chính Công tác phòng, chống tình trạng người Việt Nam sang Căm-Pu-Chia đánh bạc thực trạng và giải pháp

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: