Thứ bảy 14/06/2025 20:49
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung vào việc nhận diện những bất cập pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, từ đó, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính với nhóm hành vi này trong thời gian tới.

1. Nhận diện vi phạm hành chính của người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ và những điểm bất cập của pháp luật về xử phạt hành chính đối với nhóm hành vi vi phạm của người điều khiển xe mô tô

Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt (Nghị định số 100/2019/NĐ-CP); Nghị định số 123/2021/NĐ-CP ngày 28/12/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hàng hải; giao thông đường bộ, đường sắt; hàng không dân dụng (Nghị định số 123/2021/NĐ-CP), có hiệu lực từ ngày 01/01/2022; Thông tư số 15/2022/TT-BCA ngày 06/4/2022 của Bộ trưởng Bộ Công an, trong đó, có nội dung quy định về sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 65/2020/TT-BCA ngày 19/6/2020 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về trình tự tuần tra, kiểm soát và xử lý vi phạm hành chính về giao thông đường bộ… là những quy định căn bản làm cơ sở cho việc xử phạt hành vi vi phạm của người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ.

Vi phạm hành chính của người điểu khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ là hành vi có lỗi do cá nhân điều khiển xe mô tô thực hiện, vi phạm quy tắc giao thông đường bộ mà theo quy định của pháp luật phải chịu trách nhiệm hành chính. Vi phạm thể hiện dưới dạng hành động như: Chở người ngồi trên xe sử dụng ô (dù); điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 03 xe trở lên; bấm còi trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định; điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định... hoặc thể hiện dưới dạng không hành động như: Không sử dụng đèn chiếu sáng trong thời gian từ 19 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau hoặc khi thời tiết có sương mù hay bị hạn chế tầm nhìn; xe không được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên; gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn… Các hành vi vi phạm cụ thể được mô tả trong Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP.

Tương ứng với hành vi vi phạm là hình thức xử phạt cảnh cáo, phạt tiền, các hình thức xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy phép lái xe, tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm… Tại khoản 10 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt bổ sung đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ là tịch thu thiết bị phát tín hiệu ưu tiên lắp đặt, sử dụng trái quy định đối với 01 hành vi vi phạm; tước quyền sử dụng giấy phép lái xe đối với 53 hành vi vi phạm và tịch thu phương tiện đối với 04 hành vi vi phạm. Ngoài ra, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP cũng đã quy định biện pháp ngăn chặn nhằm ngăn ngừa hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra bằng hình thức tạm giữ phương tiện đối với 19 hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của người điều khiển xe mô tô (theo khoản 1 Điều 82 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP). Ví dụ: Hành vi điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn nhưng chưa vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc chưa vượt quá 0,25 miligam/1 lít khí thở (điểm c khoản 6 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP) bị áp dụng hình thức xử phạt chính là phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng và áp dụng hình thức phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 10 tháng đến 12 tháng (điểm đ khoản 10 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP), tạm giữ phương tiện (điểm b khoản 1 Điều 82 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP). Như vậy, đối với người điều khiển xe mô tô thì phương tiện và giấy phép lái xe có ý nghĩa đặc biệt, nếu thiếu chúng, hành vi vi phạm không thể xảy ra. Do vậy, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định các hình thức xử phạt bổ sung là tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn là cần thiết nhằm góp phần ngăn ngừa, răn đe và trừng trị những cá nhân, tổ chức cố tình vi phạm.

Tuy nhiên, trong các quy định pháp luật còn có sự bất hợp lý, các chế tài xử phạt chưa tương thích với hành vi vi phạm đã làm cho người vi phạm “xem thường pháp luật”, làm hạn chế đến hoạt động xử phạt vi phạm hành chính đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm, cụ thể:

Thứ nhất, tại điểm b khoản 1 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định việc tạm giữ phương tiện để ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính mà nếu không tạm giữ sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Trên cơ sở này, Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP đã quy định tạm giữ phương tiện đối với 19 hành vi, nhóm hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ của người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy nhằm ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hành chính, góp phần trừng trị, răn đe, ngăn ngừa vi phạm, hạn chế xảy ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Tuy nhiên, một số hành vi của người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ như không đội mũ bảo hiểm cho người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy hoặc đội mũ bảo hiểm cho người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy không cài quai đúng quy cách khi điều khiển xe tham gia giao thông trên đường bộ; chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy hoặc đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật (các điểm i, k khoản 2 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP) hoặc chở theo từ 03 người trở lên trên xe (điểm b khoản 3 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP) chỉ bị áp dụng hình thức xử phạt tiền mà không được pháp luật quy định biện pháp ngăn chặn tạm giữ phương tiện. Nếu chỉ áp dụng hình thức xử phạt tiền đối với những trường hợp này mà không áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ phương tiện thì chẳng khác nào thỏa hiệp với tư duy phạt và đồng ý cho tồn tại, chính vì thế, phương tiện tiếp tục được lưu hành. Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ yêu cầu người có hành vi vi phạm hành chính đang diễn ra phải chấm dứt ngay hành vi vi phạm. Nhưng sau khi lập xong biên bản vi phạm hành chính, liệu chủ thể có thẩm quyền đang thi hành công vụ có thể kiểm soát được đầy đủ hoạt động, hành vi của người vi phạm không, hay người vi phạm sẽ tiếp tục không đội mũ bảo hiểm hoặc tiếp tục chở theo từ 03 người trở lên trên xe? Thực tế cho thấy, sau khi chủ thể có thẩm quyền đã chấn chỉnh, giáo dục, xử lý xong, nhưng nếu người vi phạm không có ý thức tự giác chấp hành thì đến vị trí ngoài tầm kiểm soát của chủ thể có thẩm quyền, họ lại tiếp tục hành vi vi phạm không đội mũ bảo hiểm, tiếp tục chở theo từ 03 người trở lên trên xe, do chưa có biện pháp ngăn chặn hiệu quả.

Thứ hai, có thể khẳng định, sau khi triển khai, Nghị định số 100/2019/NĐ-CP đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, sự đồng tình, ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Nhất là quy định tăng mức tiền xử phạt, thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép lái xe đối với người điều khiển xe trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn đã có sức răn đe người tham gia giao thông, mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, qua thực tiễn công tác xử phạt vi phạm hành chính, phát hiện một số trường hợp vi phạm khai báo không có hoặc “cố ý” khai báo không có giấy phép lái xe, hay bị mất giấy phép lái xe. Do đó, chủ thể có thẩm quyền chỉ áp dụng được hình thức xử phạt chính (phạt tiền), không áp dụng được hình thức xử phạt bổ sung (tước quyền sử dụng giấy phép lái xe).

Theo quy định tại Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, hành vi người điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 mà không có giấy phép lái xe thì bị phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng (điểm a khoản 5 Điều 21); điều khiển xe mô tô hai bánh có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe mô tô ba bánh mà không có giấy phép lái xe thì bị phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng (điểm b khoản 7 Điều 21). Còn đối với vi phạm nồng độ cồn, tùy tính chất, mức độ vi phạm có thể áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 10 tháng đến 12 tháng hoặc từ 16 tháng đến 18 tháng, thậm chí từ 22 tháng đến 24 tháng (các điểm đ, e, g khoản 10 Điều 6). Trong các hình thức trên thì hình thức tước quyền sử dụng giấy phép lái xe thể hiện sự nghiêm khắc hơn. Như vậy, có thể dẫn đến sự chuyển hóa là người có giấy phép lái xe sẽ khai báo là không có giấy phép lái xe để “tự nguyện” nộp phạt tiền. Đây là một “kẽ hở” của quy định pháp luật mà người vi phạm có thể lợi dụng để trốn tránh trách nhiệm hành chính mà chủ thể có thẩm quyền xử phạt đang gặp khó khăn trong thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính hiện nay, nhất là quy định tăng hình thức xử phạt đối với người điều khiển xe vi phạm nồng độ cồn.

Thứ ba, một số thuật ngữ được sử dụng trong Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và Nghị định số 100/2019/NĐ-CP còn mang tính định tính, chưa được giải thích rõ ràng, như: Các thuật ngữ “lạng lách, đánh võng”, “rú ga (nẹt pô) liên tục”, “trẻ em”... Qua tra cứu một số từ điển như: Từ điển tiếng Việt, Từ điển Luật học, Từ điển Bách khoa Công an nhân dân… những thuật ngữ này không có khái niệm, giải thích nên tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, thiếu thống nhất, gây khó khăn khi áp dụng trong thực tiễn. Vì vậy, việc có xử phạt hay không phụ thuộc vào tư duy chủ quan của người có thẩm quyền xử phạt.

Thuật ngữ “trẻ em” theo Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Như vậy, theo pháp luật Việt Nam thì trẻ em là người dưới 16 tuổi. Tại khoản 2 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP quy định phạt tiền đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm (trừ một số trường hợp liên quan đến trẻ em) sau đây: Chở người ngồi trên xe không đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô hoặc đội mũ bảo hiểm cho người đi mô tô không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật (điểm k); chở theo 02 người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật (điểm l); ngồi phía sau vòng tay qua người ngồi trước để điều khiển xe, trừ trường hợp chở trẻ em ngồi phía trước (điểm m). Theo quy định này thì đối tượng “trẻ em” được quy định ở nhiều độ tuổi khác nhau. Việc pháp luật đặt ra các quy định nhiều cấp độ tuổi như vậy mang tính nhân văn, nhân đạo với mục đích tốt đẹp là để bảo vệ trẻ em. Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, các chủ thể có thẩm quyền cũng rất khó hoặc sẽ mất nhiều thời gian để chứng minh đâu là “trẻ em dưới 06 tuổi”, “trẻ em dưới 14 tuổi”, vì pháp luật cũng không quy định và không thể quy định “trẻ em” khi ngồi trên xe mô tô phải mang theo giấy khai sinh. Quy định cấm người điều khiển xe ngồi phía sau vòng tay qua người ngồi trước để điều khiển xe, trừ trường hợp chở “trẻ em” ngồi phía trước (điểm m), vậy độ tuổi “trẻ em” theo quy định này là bao nhiêu tuổi, dưới 06 tuổi, dưới 14 tuổi, hay dưới 16 tuổi? Liệu người điều khiển xe mô tô chở trẻ em dưới 16 tuổi ngồi phía trước có bảo đảm an toàn không? Chủ thể có thẩm quyền khi phát hiện có cơ sở pháp lý để xử phạt thì được không? Xử phạt như vậy có thuyết phục không? Việc pháp luật quy định như thế đã khiến cơ sở pháp lý trở nên thiếu khoa học, lỏng lẻo và mâu thuẫn; gây nhiều tranh cãi, khó khăn trong thực tiễn áp dụng.

2. Một số kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm của người điều khiển xe mô tô

Một là, cần xem xét bổ sung vào Nghị định số 100/2019/NĐ-CP việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn “tạm giữ phương tiện” đối với người điều khiển xe mô tô vi phạm điểm i, k khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP. Quy định bổ sung này sẽ góp phần xử lý nghiêm, triệt để hành vi vi phạm của người điều khiển xe mô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người tham gia giao thông, đồng thời giảm thiểu thiệt hại về người, tài sản do tai nạn giao thông gây ra.

Sửa đổi một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (từ Điều 38 đến Điều 51, Điều 125) theo hướng tăng thẩm quyền được tạm giữ phương tiện cho các chủ thể có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ có giá trị gấp nhiều lần mức tiền phạt tối đa của chủ thể có thẩm quyền xử phạt như hiện nay.

Hai là, để bổ sung, hướng dẫn các quy định xử lý chặt chẽ, mang tính răn đe, hạn chế tình trạng “lách luật”, tiếp diễn hành vi vi phạm như hiện nay, ngoài áp dụng hình thức xử phạt chính (phạt tiền) cho các hành vi vi phạm tương ứng, kiến nghị Quốc hội, Chính phủ cần sửa đổi Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, bổ sung hình thức xử phạt bổ sung như sau: Đối với trường hợp người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy vi phạm quy định về nồng độ cồn mà “thực sự” không có giấy phép lái xe, thì tùy vào tính chất, mức độ vi phạm, chủ thể có thẩm quyền quyết định áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe được cấp mới nhất trong hệ thống thông tin quản lý giấy phép lái xe hoặc cấm thi (nếu chưa có giấy phép lái xe) trong thời hạn tương ứng với thời hạn tước quyền sử dụng giấy phép lái xe của người vi phạm có giấy phép lái xe.

Sửa đổi theo hướng tăng mức phạt tiền được quy định tại Điều 24 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 để làm cơ sở điều chỉnh mức xử phạt tiền của các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Chương II Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (từ Điều 38 đến Điều 51).

Ba là, để khắc phục bất cập trong cách sử dụng từ ngữ, theo tác giả, cần xem xét, sửa đổi Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và các nghị định hướng dẫn thi hành, cần nghiên cứu chỉnh sửa, bổ sung, giải thích, làm rõ những thuật ngữ còn mang tính chất định tính, chưa rõ nghĩa để bảo đảm tính nhận thức và tư duy, tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, hiệu quả trong xử phạt vi phạm hành chính.

Trương Đồng Hai

Trường Đại học Trà Vinh

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm