Chủ nhật 07/12/2025 10:27
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Quy định về các tội xâm phạm sức khỏe người khác trong các giai đoạn của lịch sử pháp luật hình sự

Tóm tắt: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã có nhiều quy định mới, tiến bộ về các tội xâm phạm sức khỏe con người, phù hợp với quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về bảo vệ quyền con người và yêu cầu của đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Để hiểu rõ hơn về nhóm tội phạm này, bài viết đã tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thời kỳ phong kiến đến trước khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực thi hành.


Abstract: The Criminal Code of 2015 (as amended in 2017) possesses new, progressive provisions on infliction of bodily harm upon another person in conformity with viewpoints of the Party and the State on human right protection and requirements of the prevention, fight against crimes in the present time. In order to more clearly understand this group of crimes, the paper studies provisions of Vietnamese criminal law from the feudal time until the time before the Criminal Code of 2015 in effect.

Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự và tự do của họ. Pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ đều chú trọng việc bảo vệ con người, đặc biệt nghiêm cấm và có thái độ nghiêm khắc đối với các hành vi xâm phạm sức khoẻ con người.

1. Các quy định pháp luật thời kỳ phong kiến

Bộ luật Hồng Đức được áp dụng phổ biến và chủ yếu thời Lê sơ và các triều đại sau này đến thế kỷ XVIII, gồm 06 quyển, 13 chương và 722 điều luật. Nhóm các tội xâm phạm sức khoẻ con người được quy định tại Quyển thứ tư, chương Đấu ẩu (có 50 điều), gồm các tội: Tội cố ý đánh người (Điều 465, 466, 469... ), tội cùng đánh nhau gây thương tích hoặc chết người (Điều 467, 471…). Bắt gian phu trong đêm tối, đã bắt được rồi mà còn đánh chết, thì xử tội đồ làm chủng điền binh và phải trả một phần ba số tiền đền mạng cho vợ con người bị chết. Nếu người khác thuê mà đánh chết, thì phải tội nặng thêm hai bậc và phải trả một nửa số tiền đền mạng cho vợ con người bị chết. Nếu đánh trọng thương thì xử tội đồ làm khao đinh. Nếu chưa phân phải trái mà lỡ đánh chết ngay tại chỗ, thì không phải tội. Ở Chương Đấu tụng (đánh nhau kiện cáo) có một số quy định như:

- Lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài; đánh thì xử lưu đi châu xa; đánh bị thương thì xử tội giảo; nếu lầm lỡ mà làm chết, thì xử tội lưu đi châu ngoài; bị thương thì xử tội đồ làm chủng điền binh. Đánh ông bà ngoại thì giảm tội một bậc. Nếu con cháu trái phạm lời dạy dỗ, mà ông bà, cha mẹ đánh chết, thì xử tội đồ làm khao đinh; đánh chết bằng đồ vật có mũi nhọn, thì xử tội đồ làm tượng phường binh; cố ý giết chết thì phải tội thêm một bậc. Nếu ông bà ngoại, mẹ đích, mẹ kế, mẹ nuôi mà đánh chết con cháu, thì xử tội nặng thêm một bậc. Ngộ sát thì đều không phải tội. [475 - Điều 11]

- Vợ cả, vợ lẽ mà lăng mạ ông bà, cha mẹ chồng thì xử tội lưu (cha mẹ chồng thưa kiện mới xử tội); đánh thì xử lưu châu ngoài; đánh bị thương thì xử lưu đi châu xa; đánh chết thì xử tội giảo; ngộ sát thì xử tội đồ làm thung thất tỳ; lỡ đánh bị thương thì xử tội đồ làm xuy thất tỳ. Đánh chửi ông bà, cha mẹ chồng cũ, thì đều bị xử nhẹ hơn một bậc. Đánh vợ của con cháu thành phế tật, thì xử biếm hai tư, nặng nữa thì xử biếm ba tư; đánh chết thì xử tội đồ; cố sát thì xử tội lưu châu ngoài; đánh nàng hầu con cháu thì được giảm 2 bậc; ngộ sát thì không xử tội. Ông bà, cha mẹ chồng cũ mà phạm tội, thì xử tội thêm một bậc. [476 - Điều 12]

- Đánh anh chị cậu dì và ông bà cha mẹ vợ thì xử tội đồ làm khao đinh; đánh bị thương thì xử đồ làm tượng phường binh; đánh bị thương gãy chân tay, thì xử đồ làm chủng điền binh; đánh bằng gươm giáo bị thương gãy chân tay mù mắt, thì xử lưu đi châu xa; đánh chết thì xử chém. Lăng mạ những người nói trên, thì xử biếm hai tư; ngộ sát thì xử đồ làm chủng điền binh; lầm lỡ làm bị thương, thì đồ làm khao đinh. Đối với bác, chú, thím, cô đều xử nặng hơn một bậc. Đánh chết em trai, em gái, cùng là con cháu gái, con rể con cháu của anh em, thì xử đồ làm chủng điền binh; đánh chết bằng đồ nhọn sắc và cố ý giết thì xử tội lưu đi châu ngoài; ngộ sát thì không phải tội; đánh vợ của anh thì xử nặng hơn tội đánh người thường một bậc. [477 - Điều 13]

- Đánh anh chị hàng ty ma thì phải biếm một tư, hàng tiểu công, đại công, thì tăng tội từng bậc một. Đánh bậc tôn trưởng lại thêm tội một bậc; đánh trọng thương thì xử nặng hơn tội đánh bị thương người thường một bậc; đánh chết thì phải tội chém. Bậc tôn trưởng đánh bị thương những con cháu bậc dưới từ hàng ty ma thì xử nhẹ hơn đánh người thường một bậc; hàng tiểu công, đại công đều kém dần từng bậc một. Đánh chết thì xử tội giảo; đánh chết không phải bằng mũi nhọn và không phải cố ý giết thì xử tội lưu đi châu xa. [478 - Điều 14]

- Nô tỳ đánh chủ nhà thì xử tội giảo; đánh què, bị thương thì phải tội chém; ngộ sát thì phải lưu đi châu xa; lỡ làm bị thương thì lưu đi châu ngoài; lăng mạ thì lưu đi châu gần. Đánh chửi ông bà, cha mẹ chủ thì phải xử cùng một tội; đánh mắng ông bà ngoại cùng hàng cơ thân của chủ thì đều xử nhẹ hơn một bậc; đánh bị thương thì xử tội giảo. Đánh chửi họ chủ từ hàng ty ma thì xử nặng hơn đánh mắng người thường hai bậc; hàng tiểu công, đại công, thì tăng dần lên từng bậc một; đánh chết thì đều phải chém. Người cầm cố mà đánh mắng chủ cầm, thì đều xử nhẹ hơn tội nô tỳ một bậc và đòi tiền cầm trả cho chủ. [480 - Điều 16]

- Chồng đánh vợ bị thương, thì xử nhẹ hơn tội đánh bị thương người thường ba bậc; nếu đánh chết thì xử nhẹ hơn tội đánh giết người ba bậc; tiền đền mạng được bớt ba phần. Cố ý giết vợ thì được giảm tội một bậc; nếu có tội mà chồng đánh không may đến chết, thì sẽ xử khác. Đánh vợ lẽ bị thương, què trở lên thì đều xử nhẹ hơn tội đánh vợ hai bậc; nếu vợ cả đánh bị thương, đánh chết vợ lẽ xử tội như chồng đánh vợ (đều phải có vợ cả, vợ lẽ cáo quan thì mới bắt tội, nếu bị chết thì người khác được cáo quan. Đánh chết vợ là bất mục). Nếu ngộ sát thì không phải tội. [482 - Điều 18]

- Nô tỳ đánh chủ cũ, thì xử lưu đi châu gần; đánh bị thương què, thì xử lưu đi châu xa; đánh chết thì xử chém. Lăng mạ thì xử tội đồ làm tượng phường binh. Lầm lỡ giết chết hay đánh bị thương thì xử theo tội giết hay đánh bị thương người thường. Nếu chủ cũ đánh những nô tỳ cũ từ bị thương què gãy trở lên, thì xử nhẹ hơn tội đành người bị thương bốn bậc. Ngộ sát thì không phải tội. [486 - Điều 22]

- Người trông nom công dịch mà đánh người phục dịch đến chết, thì xử tội đồ, và phải phạt một nửa số tiền đền mạng; ngộ sát, thì chỉ phải đền tiền mai táng 20 quan. Nếu vì oán thù riêng mà mượn cớ việc công để đánh chết người, thì xử theo tội đánh giết người. [494 - Điều 30]

- Những việc lầm lỡ làm người bị thương hay chết, đều xét theo tình trạng sự việc mà giảm tội (nghĩa là việc xảy ra ngoài sức người, tai mắt không kịp nhận thấy, không kịp nghĩ tới, hay vì vật nặng, sức người không chống nổi; hoặc trèo lên trên cao, tới chỗ nguy hiểm, săn bắt cầm thù, để đến nối thành ra sát thương người đều là việc lầm lỡ). [499 - Điều 35]

Năm 1815, Bộ luật Gia Long (Hoàng Việt luật lệ) được công bố, gồm 398 điều, chia thành 22 quyển. Trong Bộ luật này các tội xâm phạm sức khỏe con người được quy định tại Quyển 15 phần “Đấu ẩu” (đánh lộn), từ Điều 1 đến Điều 22 được sắp xếp thành nhóm căn cứ vào khách thể loại, bao gồm các tội: Đánh ẩu (đánh lộn); cung nội phẩn tranh (nổi giận trong cung); tôn thất than bị ẩu (Hoàng tôn thân trong tôn thất bị đánh); ẩu chế sứ cập bản quản trưởng quan (đánh sứ nhà vua và đánh trưởng quan cai quản); tá chức thống thuộc ẩu trưởng quan (quan phó dưới quyền đánh trưởng quan); thượng ti quan dữ thống thuộc quan tương ẩu (quan thượng ti và quan dưới quyền cùng đánh nhau); cửu phẩm dĩ thượng quan ẩu trưởng quan (quan cửu phẩm trở lên đánh trưởng quan); cự ẩu trị nhiếp nhân (chống cự, đánh người đến thu thuế); ẩu thụ nghiệp thu (đánh thầy dạy mình); uy lực phế phược nhân (dùng oai lực áp chế trói người); lương tiện tương ẩu (kẻ lành, kẻ hèn cùng đánh nhau); nô tì ẩu gia trưởng (nô tì đánh gia trưởng); đồng tính thân thuộc tương ẩu (thân thuộc cùng họ đánh nhau); thê thiếp ẩu phu (thê thiếp đánh chồng); ẩu đại công dĩ hạ tôn trưởng (đánh hàng đại công xuống đến công trưởng); ẩu kỳ than tôn trưởng (đánh hàng kì than tôn trưởng); ẩu tổ phụ mẫu, phụ mẫu (đánh ông bà, cha mẹ); thê thiếp dữ phu than thuộc tương ẩu (thê thiếp cùng đánh lộn với than thuộc bên chồng); ẩu thê tiền phu chi tử (đánh con chồng trước của vợ); thê thiếp ẩu cố phu phụ mẫu (thê thiếp đánh cha mẹ của chồng đã chết và Tổ phụ bị ẩu (ông bà bị đánh)…

Mỗi điều luật trong Bộ luật này thường quy định nhiều tội phạm khác nhau và tuy không xâm phạm cùng khách thể nhưng chúng lại có mối liên hệ chặt chẽ với nhau nên rất thuận lợi cho việc xét xử. Đường lối xử lý cũng có nhiều tiến bộ, thể hiện ở việc quy định nhiều loại và mức hình phạt khác nhau phù hợp với nhân than người phạm tội, vai trò của người đồng phạm... mức thấp nhất là hai mươi roi, cao nhất là chém. Ngoài ra còn có các hình phạt bổ sung và các biện pháp cưỡng chế khác.

2. Quy định ở các thời kỳ trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985

Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ mới được thành lập phải đối mặt với những khó khăn vật chất. Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật để tạo cơ sở pháp lý cho việc trấn áp tội phạm bằng các sắc lệnh trên nhiều lĩnh vực. Với quan điểm lịch sử cụ thể, Nhà nước đã chập nhận sử dụng luật lệ của chế độ cũ. Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã cho phép thi hành một số luật lệ của chế độ cũ nhưng không trái với nền độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa. Trong đó có Bộ “Luật Hình An Nam” ban bố tại Bắc bộ Dụ ngày 25/8/1921 và Nghị định của nguyên Toàn quyền Đông Dương ngày 02/12/1921 cùng những Dụ và nghị định sửa đổi bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi Bắc bộ kể cả Hà Nội và Hải Phòng; Bộ “Hoàng Việt Hình Luật” ban bố tại Trung bộ, Dụ ngày 03/7/1933 và nghị định của nguyên Toàn quyền Đông Dương ngày 04/7/1933 cũng những Dụ và nghị định sửa đổi Bộ luật ấy sẽ thi hành trong toàn cõi Trung bộ kể cả Đà Nẵng; Bộ Hình luật pháp tu chỉnh được ban hành ngày 31/12/1912 cùng những sắc lệnh sửa đổi sắc lệnh ấy vẫn thi hành ở Nam bộ.

Sau khi miền Bắc giải phóng, các tội xâm phạm sức khỏe con người được quy định tại Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ chính thức quy định tội cố ý gây thương tích. Điểm 3 của Thông tư có quy định: “Đánh bị thương phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm”; “đánh bị thương có tổ chức hay gây thành cố tật, hay gây chết người có thể phạt đến 20 năm. Điều này thể hiện bước tiến bộ về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta.

Sau ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, để đảm bảo an ninh trật tự và đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình phạt với 07 loại tội phạm, trong đó có quy định về các tội xâm phạm sức khoẻ con người. Cũng giai đoạn này, thông qua tổng kết công tác hàng năm và tổng kết chuyên đề về các nhóm tội, Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn pháp luật cho các Tòa án các cấp trong cả nước như Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983 về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác do vuợt quá phòng vệ chính đáng...

3. Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985

Ngày 27/6/1985, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 9 thông qua Bộ luật Hình sự đầu tiên của Việt Nam, đặt dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, hoàn thiện quy phạm pháp luật về hình sự nói chung và quy phạm pháp luật về các tội xâm phạm sức khoẻ nói riêng.

Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã được quy định tại Chương II ngay sau chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Điều này, minh chứng cho sự coi trọng của Nhà nước ta đối với quyền được bảo hộ về sức khỏe của công dân. Các tội xâm phạm sức khoẻ gồm 03 điều, gồm các tội: Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103); tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (Điều 109); tội vô ý gây thương tích nặng hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (Điều 110 ). Hình phạt và trong mỗi khung thì có mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, trong đó, mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là 20 năm tù.

Bộ luật Hình sự năm 1985 được sửa đổi, bổ sung 4 lần (vào tháng 12/1989; tháng 8/1991; tháng 12/1992 và tháng 5/1997), trong đó, các tội xâm phạm sức khoẻ con người được sửa đổi, bổ sung hai lần, gồm: Lần thứ nhất ngày 28/12/1989, sửa đổi, bổ sung về tội cố ý gây thương tích (Điều 109), bổ sung thêm một trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự tại khoản 2 Điều 109 là: Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nhiều người; lần thứ hai ngày 12/8/1991, đã sửa đổi, bổ sung tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 103), cụ thể là tại khoản 1 cụm từ “sử dụng vũ khí” được thay thế bằng cụm từ “dùng vũ lực”; “phạm tội làm chết nhiều người” được sửa đổi, bổ sung là “phạm tội làm chết nhiều người hoặc trong trường hợp nghiêm trọng khác”. Việc sửa đổi, bổ sung này nhằm giải quyết các trường hợp xảy ra trong thực tiễn làm chết nhiều người, làm bị thương nhiều người, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước do hành vi phạm tội gây ra.

4. Các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999

So với Bộ luật Hình sự năm 1985 thì Bộ luật Hình sự năm 1999 đã tách một số điều, quy định thành những tội danh mới với những hình phạt tương ứng mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Việc tách này là cụ thể hóa chính sách hình sự, có lợi cho người phạm tội và đảm bảo sự công bằng, Các tội xâm phạm sức khoẻ con người gồm 06 điều, cụ thể là:

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 109 Bộ luật Hình sự năm 1985 được tách thành 03 tội và được quy định thành ba điều luật khác nhau: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 104); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105), Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106).

Tội xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người trong khi thi hành công vụ (Điều 103 Bộ luật Hình sự năm 1985) được chia thành hai tội: Tội là chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97) và tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107).

Tội vô ý gây thương tích nặng và gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 110 Bộ luật Hình sự năm 1985) được tách thành hai tội: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác (Điều 108) và tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109).

Việc tách các tội danh như trên là biểu hiện của sự phân hoá trách nhiệm hình sự trong luật đồng thời cũng tạo điều kiện về mặt kỹ thuật để có thể tiếp tục phân hoá trách nhiệm hình sự qua việc quy định các khung hình phạt khác nhau. Cụ thể, khi chỉ là trường hợp tăng nặng hoặc giảm nhẹ định khung, các nhà làm luật khó có thể xây dựng được các khung hình phạt khác nhau cho trường hợp đó. Khi đã được tách thành tội riêng thì có thể dễ dàng xây dựng được nhiều khung hình phạt khác nhau, kể cả khung tăng nặng cũng như khung giảm nhẹ. Thêm tình tiết định khung mới là “phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục; thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê”, quy định tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 104), những tình tiết này có thể được quy định ở một tội danh hoặc ở nhiều tội danh khác nhau của nhóm tội này.

Cho đến nay, Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã được ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Bộ luật này đã đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013, đặc biệt liên quan đến các quy định về các tội xâm phạm sức khỏe con người. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay đổi vị trí của chương (từ Chương XII, nay quy định tại Chương XIV), tội phạm hóa một số trường hợp phạm tội và sửa đổi một số dấu hiệu định khung, sửa đổi quy định về hình phạt phù hợp với quan điểm của Đảng, nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền con người.

ThS. Nguyễn Huy Tài

Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương



Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.
Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Hoạt động giám sát của Quốc hội trong thực hiện điều ước quốc tế - Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị, đề xuất hoàn thiện

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số tồn tại, hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam đối với việc thực hiện điều ước quốc tế, từ đó, đưa ra một số kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, bảo đảm công tác giám sát thực hiện điều ước quốc tế ngày càng đi vào thực chất, hiệu quả.

Theo dõi chúng tôi trên: