Thứ hai 16/06/2025 20:23
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Sự cần thiết xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội

Tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội là một vấn đề còn khá mới mẻ không chỉ ở Việt Nam mà cả trên thế giới. Tại các văn bản luật của Việt Nam, chưa có quy định chính thức nào quy định về tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội mà chỉ có quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân[1].

Tuy nhiên, cùng với rà soát, kịp thời bổ sung những điều kiện bảo đảm cho hoạt động của đại biểu Quốc hội, phải hết sức coi trọng công tác theo dõi, nhận xét, đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội. Phải làm sao để việc nhận xét, đánh giá hoạt động đại biểu nhằm sàng lọc cho nhiệm vụ tiếp theo của Quốc hội hạn chế tối đa những “ông nghị”, “bà nghị” chưa làm hết trách nhiệm và thiếu bản lĩnh trong quá trình thực hiện quyền, nhiệm vụ theo luật định.

Dõi theo các hoạt động tại nghị trường Quốc hội có thể thấy, số đại biểu “đăng đàn” phát biểu tỏ rõ quan điểm về những vấn đề lớn của đất nước, đề xuất cơ chế, chính sách, chế định của pháp luật để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước; dám chất vấn đối với cơ quan, cá nhân về những sai phạm khiến cử tri và nhân dân bức xúc chiếm tỷ lệ còn quá khiêm tốn. Số đại biểu có trách nhiệm và bản lĩnh ấy thường là đại biểu chuyên trách và đại biểu ở các tổ chức chính trị, xã hội. Một thực tế đáng buồn là rất nhiều đại biểu Quốc hội đang đảm đương chức danh cấp ủy ở địa phương, có người là Ủy viên Trung ương Đảng, nhưng hầu như không thấy “đăng đàn” chất vấn hoặc nếu có phát biểu thì cũng chung chung, không thể hiện rõ quan điểm trước vấn đề “nóng” trong quản lý nhà nước... Có đại biểu Hội đồng nhân dân cả nhiệm kỳ không hề phát biểu[2].

1. Một số vấn đề về đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội hiện nay

Thứ nhất, chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể, các buổi thảo luận chuyên đề, trình dự án luật về hoạt động xây dựng pháp luật

Với những dự án văn bản quan trọng, các đại biểu thảo luận tại các phiên họp toàn thể, các buổi thảo luận chuyên đề về hoạt động xây dựng pháp luật được nâng lên rõ rệt. Các đại biểu Quốc hội thẳng thắn nói tiếng nói cử tri, bày tỏ ý kiến, phản ánh, đề nghị của các cử tri mà mình có trách nhiệm truyền tải và bảo vệ. Các đại biểu đã có tính độc lập cao, tranh luận sôi nổi, bám sát ý kiến, yêu cầu của cử tri. Nhiều đại biểu đã phát biểu riêng cho hoạt động lập pháp, phát biểu không chỉ với tư cách chuyên gia cấp cao trong lĩnh vực pháp luật mà còn với tấm lòng nhiệt huyết, lương tri đại biểu trong việc phản ánh ý chí của cử tri. Bên cạnh đó, còn có những đại biểu mạnh dạn đề xuất dự án luật với tư cách cá nhân.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động của đại biểu Quốc hội cũng tồn tại nhiều hạn chế. Xây dựng luật là quyền hiến định đối với đại biểu Quốc hội, nhưng trên thực tế, số lượng đề xuất, kiến nghị của đại biểu về chương trình xây dựng luật gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội còn ít. Cùng với quá trình soạn dự thảo luật, công việc khởi đầu này thường giao và phụ thuộc nhiều vào cơ quan hành pháp. Nó tạo nên sự thụ động, trông chờ của Quốc hội vào phía các nhà quản lý hành chính. Đại biểu Quốc hội kiêm nhiệm còn nhiều, bộ phận giúp việc hạn chế, việc thuê khoán các chuyên gia chưa phổ biến, quan niệm đại biểu là một “nghề” cần chuyên sâu đang hình thành, nên rất khó để yêu cầu đại biểu có thể hoàn tất quyền hiến định quan trọng này. Thực tế còn có hiện tượng, đại biểu Quốc hội tiến hành thảo luận ở tổ, đoàn và tại phiên họp toàn thể mà không “ngó ngàng” gì tới tài liệu; những ý kiến trái chiều hoặc tranh luận chủ yếu tập trung vào một số đại biểu có vị trí tương đối độc lập với nhánh hành pháp. Một số đại biểu vẫn than phiền là tài liệu quá nhiều, nhưng có thể do không biết cách xử lý nên vẫn thiếu thông tin để chuẩn bị cho phiên họp và hậu quả là không phát biểu ý kiến một lần nào. Bên cạnh đó, trong kỳ họp, nhiều đại biểu Quốc hội đã chuẩn bị kĩ những ý kiến để tham gia, viết thành bài phát biểu, nhưng cũng vì thế mà bị lệ thuộc vào bài viết, thiếu khả năng ứng phó tức thời, nên đã xảy ra tình trạng trùng lặp ý kiến.

Thứ hai, chất lượng hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội

Hoạt động chất vấn luôn có sự đổi mới để nâng cao chất lượng như: Chất vấn theo nhóm vấn đề, tăng thời gian chất vấn tại hội trường, hạn chế thấp nhất thời gian trả lời bằng văn bản, nâng cao kỹ năng hỏi - đáp trong các buổi chất vấn, đảm bảo đúng nội dung, ngắn gọn, nghiêm túc và có tính trách nhiệm. Số lượng và chất lượng các câu hỏi chất vấn ngày càng được nâng cao, bám sát yêu cầu của cử tri. Việc tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri, theo dõi việc thực hiện lời hứa của chủ thể trả lời chất vấn được thực hiện đều đặn. Hình thức giám sát tối cao qua chất vấn của Quốc hội có nhiều đổi mới, đã tăng thời gian chất vấn từ 2,5 ngày lên 3 ngày. Tại phiên chất vấn, không chỉ kiến thức, sự am hiểu mà cả kỹ năng phát biểu của các đại biểu Quốc hội cũng tốt hơn, các đại biểu không chỉ chất vấn, tranh luận với Bộ trưởng, các thành viên Chính phủ mà còn thẳng thắn giơ biển xin tranh luận lại với chính đại biểu Quốc hội khác...

Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội vẫn còn những hạn chế. Suốt quá trình họp, nhiều đại biểu không hề chất vấn, mang tư tưởng ỷ lại để lâu thành thói quen. Các đại biểu chất vấn thì nêu lên rất nhiều câu hỏi nhưng không phải tất cả đều đúng với nghĩa chất vấn. Chất lượng câu hỏi còn hạn chế, chưa xứng tầm, đôi khi câu hỏi còn dài dòng, không rõ trọng tâm hay chỉ là những câu hỏi thường yêu cầu cung cấp thông tin về một vấn đề nào đó. Các câu hỏi thường chỉ xuất phát từ lĩnh vực thuộc chuyên ngành của các đại biểu mà chưa tập trung vào những vấn đề quan trọng được dư luận quan tâm.

Thứ ba, chất lượng hoạt động quyết định phê chuẩn những vấn đề quan trọng của Quốc hội

Trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bên cạnh kế hoạch năm, Quốc hội ban hành các nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh kế - xã hội 5 năm, làm căn cứ phát triển cho cả nhiệm kỳ. Đại biểu Quốc hội cũng dành thời gian tập trung đánh giá khách quan, toàn diện, sâu sắc những mặt tích cực và những hạn chế, yếu kém trong việc thực hiện từng mục tiêu, chỉ tiêu kinh tế; xác định nguyên nhân chủ quan, khách quan, kết quả công tác điều hành của Chính phủ, các ngành, các cấp để từ đó đề ra mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về chính sách, điều hành cho từng năm sau đó.

Trong những năm gần đây, ngay cả một số nhà nghiên cứu người nước ngoài về Việt Nam, vốn khắt khe trong đánh giá cũng nhận xét rằng, đại biểu Quốc hội Việt Nam ngày càng thực quyền hơn, không còn nhiều đặc tính của một Quốc hội “con dấu” nữa[3]. Kỳ họp đã tạo ra một “không khí ở hội trường Quốc hội”, những vấn đề được giải quyết ở hành lang Quốc hội đã kéo theo rất nhiều vấn đề khác của đất nước cũng được giải quyết triệt để. Tuy nhiên, hoạt động này cũng vẫn còn những hạn chế nhất định. Theo kết quả thăm dò dư luận đánh giá về chất lượng, hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, chỉ có 30% số được hỏi đánh giá tốt, 38% đánh giá tương đối tốt, 20% đánh giá bình thường, 4% đánh giá là yếu và 8% cho rằng không biết[4]. Một số đại biểu chỉ biết thông tin qua “biển xanh - nhà biệt thự - nước biển trên báo chí” để truy tìm nguyên nhân.

Thứ tư, chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp nhận ý kiến giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân

Hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp nhận ý kiến giải quyết các khiếu nại, tố cáo của nhân dân ngày càng được chú trọng và có những đổi mới về nội dung cũng như hình thức tổ chức, qua đó giúp đại biểu Quốc hội có thể thu nhận được ý kiến mang tính chất chuyên sâu về những vấn đề bức xúc hiện nay của cử tri và nhân dân. Theo đó, chất lượng của hoạt động tiếp xúc cử tri nhìn chung đã có chuyển biến đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo luật định và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc tiếp nhận đơn thư của công dân bảo đảm tính dân chủ, công khai và thuận tiện cho công dân thông qua nhiều hình thức như qua cơ quan truyền thông, qua hoạt động tiếp công dân, tiếp xúc cử tri. Chọn những nơi có diễn biến phức tạp và bức xúc về khiếu nại, tố cáo để giám sát.

Công tác tiếp công dân tuy có nhiều cố gắng, nhưng hiệu quả chưa cao; chưa bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa việc tiếp công dân với việc nghiên cứu, xử lý đơn, thư và với công tác giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các đại biểu Quốc hội ở trung ương hầu như không tham gia việc tiếp công dân định kỳ tại địa phương. Công tác theo dõi, đôn đốc, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết các đơn, thư đã chuyển cũng chưa được tiến hành thường xuyên; nhiều trường hợp mới chỉ dừng lại ở việc chuyển đơn mà chưa chú trọng xem xét, đánh giá việc giải quyết[5].

Hoạt động thu thập, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri cũng như việc giải quyết các ý kiến còn bất cập. Một số đại biểu Quốc hội thực hiện nhiệm vụ tiếp xúc cử tri không thường xuyên; đại biểu chưa chủ động tiến hành các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, khi tiếp nhận ý kiến, kiến nghị của cử tri chưa chủ động nghiên cứu, chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền; báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri chất lượng chưa cao, chưa phân loại được đâu là ý kiến bày tỏ tâm tư, nguyện vọng của cử tri, đâu là ý kiến đóng góp về chủ trương, chính sách pháp luật và đâu là ý kiến, kiến nghị cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của các Bộ, ngành trung ương. Đối với việc xem xét, giải quyết ý kiến, kiến nghị cử tri của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì việc trả lời của một số cơ quan còn chậm, còn thiếu, chưa đúng với nội dung mà cử tri kiến nghị, có những vấn đề còn chưa cụ thể, chưa nêu được lộ trình giải quyết đối với những vấn đề được nêu ra, văn bản trả lời còn nặng về giải thích cơ chế, chính sách[6].

2. Sự cần thiết xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội

Hiện nay, có nhiều giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả, về xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội còn thiếu vắng, do đó, cần khẩn trương đưa vào quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội. Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, tại các văn bản luật của Việt Nam, chưa có quy định chính thức nào quy định về tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội mà chỉ có quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Do đó, trong thực tiễn có hiện tượng đại biểu ngủ gật, chơi điện tử, xem điện thoại, nói chuyện riêng trong khi làm nhiệm vụ đại biểu tại Hội trường. Trong những kỳ họp gần đây xảy ra khá nhiều chuyện đáng tiếc liên quan tới việc đại biểu Quốc hội “bấm nút hộ” hoặc vắng mặt trong các phiên họp tại hội trường, đặc biệt, có đại biểu cả nhiệm kỳ không phát biểu. Đó là những nội dung được cử tri hết sức quan tâm, bởi lẽ những “căn bệnh” trên ít nhiều ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của Quốc hội.

Chính việc chưa có tiêu chí, quy chế gắn trách nhiệm từng đại biểu với hoạt động, nhiệm vụ đại biểu của mình, nên đại biểu Quốc hội năng nổ hoạt động dễ bị chỉ lỗi, phán xét; đại biểu “im lặng” trong suốt cả nhiệm kỳ lại không chịu “chế tài” gì. Điều đó tạo sức ì, ngại va chạm, ngại tư duy, học hỏi cho một số đại biểu. Do vậy, cần phải xác định trách nhiệm trước nhân dân đối với những đại biểu chưa thực hiện “tròn vai” của mình.

Thứ hai, tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc hội tạo cơ sở pháp lý, chính trị để giám sát, đại biểu hoạt động có hiệu quả cần được biểu dương, khen thưởng xứng đáng, tạo động lực để họ hăng hái tham gia đóng góp ý kiến, cống hiến vì lợi ích chung. Công chức, viên chức, cán bộ Đảng viên hằng năm vẫn có đánh giá, phân loại, xếp loại. Do đó, nếu đại biểu Quốc hội, những người đại diện cho cử tri lại không được đánh giá chất lượng hoạt động thì sẽ khó khuyến khích những đại biểu tích cực trong việc hoàn thiện các dự án luật, làm lợi cho xã hội, đất nước.

Thứ ba, tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc hội sẽ là căn cứ (thang đánh giá đại biểu) để nhắc nhở, khiển trách, để Đại biểu tự điều chỉnh, hoàn thiện mình.

Thứ tư, việc xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội sẽ là tiền đề đảm bảo đánh giá đại biểu Quốc hội tốt về mặt định tính và định lượng. Rất nhiều quy định trong lĩnh vực này được quy định rải rác trong các văn bản như: Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Phòng, chống tham nhũng. Thậm chí có những quy định, yêu cầu phải hiểu theo cách dẫn chiếu tới các nghị định và thông tư.

Dù chúng ta chưa có quy định chính thức về tiêu chí đánh giá đại biểu Quốc Hội và từ “đánh giá” gần như không xuất hiện ở các văn bản, nhưng chúng ta vẫn có đánh giá đại biểu Quốc hội. Việc đánh giá này chủ yếu được thông qua sự tín nhiệm của nhân dân. Có đánh giá chính thức và phi chính thức: Đánh giá chính thức được thể hiện qua các báo cáo, qua việc tiếp xúc cử tri, lấy phiếu tín nhiệm, bầu cử, bãi nhiệm, hội nghị…; còn về đánh giá phi chính thức, chẳng hạn như qua báo chí đánh giá chung toàn khóa hay của từng kỳ họp, từng đại biểu… Dù khó nhưng chúng ta cần phải xây dựng được bộ tiêu chí đảm bảo cả về mặt định tính và định lượng[7].

Thứ năm, đại biểu Quốc hội khi hướng đến tính chuyên nghiệp thì càng đòi hỏi phải có những nguyên tắc ứng xử đạo đức nghề nghiệp. Đại biểu Quốc hội Nguyễn Minh Thuyết đã từng nói: Nghề nào cũng có sự dụng công. Đại biểu Quốc hội cũng như thợ mộc, thợ nề, phải tâm huyết với nghề, cố gắng tích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp và luôn sáng tạo thì mới thành công được[8]. Hiện nay, trên thế giới có một xu hướng là xây dựng các bộ quy tắc ứng xử (ở một số nước gọi là bộ quy tắc đạo đức) dành cho công chức nói chung và các nghị sỹ nói riêng. Hiện Việt Nam chưa có bộ quy tắc ứng xử dành cho các đại biểu Quốc hội cũng như đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định pháp luật về tiêu chuẩn và trách nhiệm của đại biểu Quốc hội có thể thấy một số quy định đã mang tính chất các quy tắc ứng xử tương tự như ở nhiều quốc gia[9].

Thứ năm, thông qua việc xây dựng tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội, cử tri mới thực sự được thực hiện quyền giám sát đại biểu Quốc hội. Qua đó họ có thể nắm được thái độ, lập trường của đại biểu do mình bầu ra. Đây chính là kênh thông tin chính xác, khoa học nhằm đánh giá chính thức để cử tri yêu cầu áp dụng chế tài Hiến pháp đối với chủ thể vi phạm. Qua đó, tạo ra sự minh bạch hơn trong quá trình hoạt động của Quốc hội trong thời gian tới.

TS. Trần Văn Duy

Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam


[1] Uyên Nhi (2017), Hội thảo “Tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, truy cập tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=184.

[2] Ban Biên tập (2016), Đánh giá hoạt động của đại biểu: Tiêu chí bắt buộc, truy cập tại http://hdnd.baclieu.gov.vn/hdnd/Lists/Posts/Post.aspx?List=68ba612a-822b-4af8-90a5-d5f13781cb08&ID=460.

[3] Trung tâm Thông tin - Thư viện và nghiên cứu khoa học, Báo cáo chuyên đề: Đại biểu Quốc hội - Năng lực quyết định, tr.18.

[4] Văn phòng Quốc hội (2014), Báo cáo kết quả thăm dò dư luận xã hội về tổ chức và hoạt động của Quốc hội và một số vấn đề liên quan đến Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi, Luật Bầu cử Quốc hội sửa đổi, Hà Nội.

[5] Hoàng Duy Việt (2016), Địa vị pháp lý và hoạt động của Đoàn đại biểu Quốc hội qua thực tiễn tỉnh Bắc Giang, Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 24.

[6] Ngô Trung Tại (2011), Tiếp xúc cử tri của đại biểu Quốc hội, Tóm tắt Luận văn thạc sĩ Luật học Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội, tr. 9.

[7] Uyên Nhi (2017), Hội thảo “Tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, truy cập tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=184.

[8] Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử (2011), Đại biểu Quốc hội những điều cần biết, Nxb. Chính trị - hành chính, Hà Nội, tr.171.

[9] Uyên Nhi (2017), Hội thảo “Tiêu chí đánh giá hoạt động của đại biểu Quốc hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, truy cập tại http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/tin-tuc.aspx?ItemID=184.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm