Thứ sáu 06/06/2025 23:45
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích trong Bộ luật Lao động năm 2019

Bộ luật Lao động số 45/2019/QH14 được Quốc hội thông qua ngày 20/11/2019 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Lao động năm 2019) gồm 17 chương, 220 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2021 với nhiều nội dung thay đổi liên quan đến cả người lao động và người sử dụng lao động.

Trong đó, các quy định về thẩm quyền và trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích gắn liền với đình công đã có những thay đổi với cơ chế linh hoạt hơn, tạo thuận lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Cụ thể:

Thứ nhất, giải quyết tranh chấp lao động thể về lợi ích tại Hội đồng trọng tài lao động không còn là thủ tục bắt buộc

Đối với tranh chấp lao động tập thể (gồm tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập thể về lợi ích), thì Bộ luật Lao động năm 2012 và Bộ luật Lao động năm 2019 đều quy định giải quyết thông qua hoà giải viên lao động là thủ tục đầu tiên và bắt buộc. Trường hợp hoà giải viên lao động hòa giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải mà hòa giải viên lao động không tiến hành hòa giải hoặc một trong các bên không thực hiện thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành thì các bên tranh chấp có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp tiếp theo tuỳ theo loại tranh chấp lao động tập thể. Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: Đối với tranh chấp lao động tập thể về quyền là yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động hoặc Toà án giải quyết (khoản 2 Điều 192); đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích là yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết hoặc tiến hành thủ tục đình công (khoản 3 Điều 196). Đây là một trong những điểm mới và là sự thay đổi căn bản trong trình tự giải quyết tranh chấp lao đông tập thể về lợi ích. Bộ luật Lao động năm 2012 quy định sau khi hoà giải viên lao động giải quyết tranh chấp lao động về lợi ích mà các bên không đạt được mục đích, các bên không được thực hiện thủ tục đình công mà tranh chấp phải được Hội đồng trọng tài lao động giải quyết. Tập thể lao động chỉ được tiến hành thủ tục để đình công khi Hội đồng trọng tài lao động lập biên bản hoà giải không thành hoặc lập biên bản hoà giải thành mà một trong các bên không thực hiện thoả thuận. Bộ luật Lao động năm 2019 cho phép người lao động lựa chọn thực hiện thủ tục để đình công mà không bắt buộc phải thông qua Hội đồng trọng tài lao động. Đình công được xem là “vũ khí” được pháp luật trao cho bên yếu thế - người lao động để cân bằng trong quan hệ lao động, thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Khi hoà giải giữa người lao động và người sử dụng lao động không đạt được sự thống nhất, thì việc tiếp tục hoà giải ở một cơ quan khác là không cần thiết, gây tốn thời gian và công sức của các bên. Người lao động có thể lưạ chọn đình công như là một trong các công cụ hữu hiệu để thúc đẩy quá trình thương lượng với người sử dụng lao động. Hội đồng trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích khi có sự đồng thuận của các bên tranh chấp. Nếu một trong các bên không đồng ý đưa vụ tranh chấp ra Hội đồng trọng tài lao động, thì thẩm quyền của cơ quan này không phát sinh.

Thứ hai, thời hạn giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích của Hội đồng trọng tài

Bộ luật Lao động năm 2012 quy định thời hạn để Hội đồng trọng tài giải quyết là 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu. Tuy nhiên, với thời hạn này, thì Bộ luật Lao động năm 2019 quy định chỉ là thời hạn để Hội đồng trọng tài lao động thành lập ban trọng tài lao động (khoản 2 Điều 197). Theo đó, ban trọng tài lao động thành lập có số lượng tối thiểu là một trọng tài (trong trường hợp các bên tranh chấp lựa chọn cùng một trọng tài viên) (điểm c khoản 4 Điều 185); tối đa là ba trọng tài viên, làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 chưa quy định chi tiết về việc thành lập và hoạt động của ban trọng tài lao động như cách thức bên tranh chấp chọn trọng tài viên, nhiệm vụ, quyền hạn của trọng tài viên…. Do đó, Chính phủ cần ban hành nghị định quy định chi tiết về vấn đề này. Ban trọng tài lao động có thời hạn 30 ngày để giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích. Như vậy, khi các bên tranh chấp đồng thuận lựa chọn Hội đồng trọng tài giải quyết tranh chấp, nếu hết thời hạn 07 ngày mà ban trọng tài lao động chưa được thành lập hoặc quá 30 ngày kể từ ngày thành lập ban trọng tài lao động mà ban này không ra quyết định về việc giải quyết tranh chấp hoặc người sử dụng lao động không thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động thì bên tranh chấp có quyền tiến hành thủ tục đình công (khoản 4 Điều 197). Tuy nhiên, Bộ luật Lao động năm 2019 chưa quy định cụ thể thời gian để người sử dụng lao động thực hiện quyết định giải quyết tranh chấp của ban trọng tài lao động để làm căn cứ xác định thời hạn người lao động có thể thực hiện thủ tục đình công. Điều này vốn đã được quy định cụ thể tại khoản 3 Điều 206 Bộ luật Lao động năm 2012 là 05 ngày kể từ ngày lập biên bản hoà giải thành.

Thứ ba, chủ thể lãnh đạo đình công

Theo Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012, thì ở những nơi có tổ chức công đoàn cơ sở, đình công phải do tổ chức công đoàn cơ sở tổ chức và lãnh đạo đình công; ở những nơi chưa có tổ chức công đoàn cơ sở thì đình công do tổ chức công đoàn cấp trên tổ chức và lãnh đạo đình công theo đề nghị của người lao động. Điều 198 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định tổ chức đại diện người lao động có quyền thương lượng tập thể có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công. Tổ chức đại diện người lao động bao gồm công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thì đây lần đầu tiên Bộ luật Lao động quy định thêm một tổ chức có chức năng bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động bên cạnh hệ thống công đoàn. Theo đó, người lao động có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bên cạnh quyền thành lập, gia nhập công đoàn thuộc hệ thống Công đoàn Việt Nam theo Luật Công đoàn. Đây được xem là bước tiến bộ đáng kể đáp ứng các tiêu chuẩn lao động quốc tế cốt lõi được quy định trong các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), có sự cải thiện rõ rệt về các quy định liên quan đến chống lao động cưỡng bức, bảo vệ quyền của người lao động cũng như nội luật hoá và thực thi cam kết quốc tế trong các hiệp định thương mại Việt Nam tham gia trong thời gian gần đây. Chính sự thay đổi này đã làm cho chủ thể tổ chức và lãnh đạo đình công cũng có sự thay đổi, góp phần hạn chế các cuộc đình công bất hợp pháp vốn đã tồn tại lâu nay do có sự vi phạm về chủ thể tổ chức và lãnh đạo đình công. Tuy nhiên, sự mở rộng chủ thể tổ chức và lãnh đạo đình công như hiện nay cũng tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp giữa các tổ chức này trong quá trình hoạt động nói chung cũng như trong vấn đề tổ chức, lãnh đạo, định hướng các cuộc đình công trong khuôn khổ luật định.

Thứ tư, các trường hợp đình công bất hợp pháp

Nhằm hạn chế tối đa thiệt hại do đình công bất hợp pháp gây ra cho người lao động, người sử dụng lao động và cho cả nền kinh tế, pháp luật lao động luôn quy định ranh giới rõ ràng giữa đình công hợp pháp và đình công bất hợp pháp. Điều 215 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định 05 trường hợp đình công bất hợp pháp là: (i) Đình công không phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích; (ii) Đình công vượt ra ngoài phạm vi doanh nghiệp; (iii) Vi phạm quy định về thời điểm đình công; (iv) Đình công tiến hành tại doanh nghiệp không được đình công thuộc danh mục do Chính phủ quy định; (v) Đình công khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công. Điều 204 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định 06 trường hợp đình công bất hợp pháp: (i) Đình công không thuộc trường hợp người lao động có quyền đình công; (ii) Đình công không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công; (iii) Vi phạm các quy định về trình tự, thủ tục tiến hành đình công; (iv) Khi tranh chấp lao động tập thể đang được cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết; (v) Tiến hành đình công trong trường hợp không được đình công; (vi) Khi đã có quyết định hoãn hoặc ngừng đình công của cơ quan có thẩm quyền.

Như vậy, theo Bộ luật Lao động năm 2019 khi đình công không thuộc trường hợp người lao động có quyền đình công thì đó là đình công bất hợp pháp. Điều 199 Bộ luật này quy định người lao động chỉ có quyền đình công đối với tranh chấp lao động tập thể về lợi ích khi các bên tranh chấp đã đưa ra hoà giải viên lao động giải quyết mà tranh chấp vẫn còn hoặc khi các bên đã thống nhất đưa vụ tranh chấp ra Hội đồng trọng tài mà tranh chấp vẫn chưa được giải quyết thoả đáng. Như vậy, đình công chỉ có thể phát sinh từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích, điều này đã được thừa nhận trong Bộ luật Lao động năm 2012. Nếu đình công hình thành không phải từ tranh chấp lao động tập thể về lợi ích sẽ thuộc trường hợp đình công bất hợp pháp. Điều 199 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định trường hợp người lao động có quyền đình công khi các bên đưa vụ tranh chấp ra hoà giải viên lao động nhưng hoà giải không thành hoặc hết thời hạn hòa giải (05 ngày kể từ ngày hòa giải viên lao động nhận được yêu cầu từ bên yêu cầu giải quyết tranh chấp hoặc từ cơ quan có thẩm quyền). Tuy nhiên, trong trường hợp khi hoà giải viên lao động lập biên bản hoà giải thành mà một trong hai bên tranh chấp không thực hiện thoả thuận trong biên bản hoà giải thành thì người lao động có quyền thực hiện thủ tục để đình công lại không được quy định ở Điều 199. Trong khi đó, tại khoản 3 Điều 196 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định trường hợp này người lao động có quyền tiến hành thủ tục để đình công. Như vậy, Điều 199 và khoản 3 Điều 188 chưa có sự đồng nhất trong việc quy định quyền đình công của người lao động.

Mặc dù, Bộ luật Lao động năm 2012 có quy định cụ thể tổ chức có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công, nhưng khi quy định về hợp đình công bất hợp pháp lại không có trường hợp đình công vi phạm chủ thể tổ chức và lãnh đạo đình công. Trong khi đó, thực tế các vụ đình công không do công đoàn tổ chức và lãnh đạo diễn ra khá phổ biến. Khắc phục hạn chế này, Bộ luật Lao động năm 2019 quy định đình công không do tổ chức đại diện người lao động có quyền tổ chức và lãnh đạo đình công thuộc trường hợp đình công bất hợp pháp.

Điều 222 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định đình công không đúng trình tự, thủ tục (lấy ý kiến của tập thể lao động, ra quyết định và thông báo đình công) không thuộc trường hợp đình công bất hợp pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quyền ra quyết định tuyên bố đình công vi phạm trình tự thủ tục và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện chủ trì giải quyết. Bộ luật Lao động năm 2019 quy định nếu người lao động vi phạm trình tự thủ tục đình công thuộc trường hợp đình công bất hợp pháp. Về mặt lý luận, đình công là quyền của người lao động, nhưng đình công thường gây ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế, xã hội, an ninh trật tư... Pháp luật lao động đa số ghi nhận quyền này của người lao động nhưng quyền này thường được quy định là “vũ khí cuối cùng” của người lao động thông qua quy định về trình tự thủ tục tiến hành đình công. Ngay khi xảy ra tranh chấp, các bên buộc phải đưa vụ tranh chấp ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết, nếu tranh chấp vẫn tồn tại thì các bên có thể thực hiện trình tự, thủ tục để đình công.

Đình công là hậu quả của quá trình giải quyết tranh chấp lao động tập thể không thành, vì vậy người lao động chỉ được phép đình công khi tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng tranh chấp không được giải quyết hiệu quả. Đình công sẽ bất hợp pháp khi rơi các trường hợp vi phạm điều kiện này. Bộ luật Lao động năm 2012 quy định tập thể lao động được chỉ phép đình công sau khi đã trải qua hai bước hòa giải là của hòa giải viên lao động, Hội đồng trọng tài lao động trước khi được phép đình công nhằm đảm bảo đình công là “vũ khí cuối cùng” của tập thể lao động khi đã trải qua các giải pháp ôn hòa nhưng tranh chấp vẫn không được giải quyết thỏa đáng. Pháp luật Việt Nam quy định chặt chẽ về thời điểm có quyền đình công, tất cả các cuộc đình công tự phát sẽ bị coi là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thực tế trong thời gian qua các cuộc đình công ở Việt Nam hầu hết là đình công bất hợp pháp do vi phạm quy định về điều kiện này. Việc quy định chặt chẽ về thời điểm có quyền đình công làm cho tập thể lao động khó có thể đáp ứng được điều kiện này nên đã khiến cho quy định của pháp luật chưa thực sự đi vào cuộc sống và đình công bất hợp pháp ngày càng trở nên phổ biến. Bộ luật Lao động năm 2019 đã rút gọn thủ tục giải quyết tranh chấp lao động, chỉ bắt buộc giải quyết tại hoà giải viên lao động, nếu tranh chấp giải quyết không thành các bên có thể tiến hành thủ tục đình công.

Như vậy, Bộ luật Lao động năm 2019 có nhiều điểm mới về thẩm quyền và trình tự giải quyết tranh chấp tập thể về lợi ích so với Bộ luật Lao động năm 2012. Những điểm mới này đã tạo tính linh hoạt, đơn giản hoá và tạo thuận lợi hơn cho các bên trong giải quyết tranh chấp lao động tập thể về lợi ích - loại tranh chấp luôn tiềm ẩn nguy cơ hình thành đình công. Hi vọng rằng, với những thay đổi trong Bộ luật Lao động năm 2019, tranh chấp lao động tập thể về lợi ích sẽ được giải quyết hiệu quả, hạn chế nguy cơ hình thành đình công, nhất là đình công bất hợp pháp.

ThS. Trương Thị Thanh Trúc
Đại học Thủ Dầu Một

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.
Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Cơ chế chính sách đặc biệt cho công tác xây dựng pháp luật

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu đồng tình, nhất trí cao tại phiên họp thẩm định dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 11/4/2025. Đồng chí Đặng Hoàng Oanh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp chủ tịch Hội đồng thẩm định chủ trì phiên họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm