Thứ sáu 13/06/2025 07:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thừa phát lại Bình Định – Kết quả và những khó khăn cần tháo gỡ

Tỉnh Bình Định là một trong 13 tỉnh triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại, được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị: Thường trực Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Ban chỉ đạo thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và của các sở, ngành chức năng, Văn phòng Thừa phát lại Bình Định được thành lập theo Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 27/1/2014 của ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định.

Thừa phát lại là một chế định tồn tại ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc và tồn tại dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa trước năm 1975 ở miền Nam. Tiếp thu những ưu điểm của mô hình Thừa phát lại trước đây ở nước ta và ở các nước trên thế giới, đồng thời thực hiện chủ trương xã hội hóa một số hoạt động bổ trợ tư pháp đã được nêu ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó có từng bước thực hiện xã hội hóa một số công việc liên quan đến công tác thi hành án dân sự. Quốc hội khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 11/11/2008 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó đã giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP). Sau khi đạt được những kết quả thành công bước đầu, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 giao Chính phủ tiếp tục triển khai việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đến ngày 31/12/2015.

Tỉnh Bình Định là một trong 13 tỉnh triển khai thí điểm chế định Thừa phát lại, được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị: Thường trực Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh, Ban chỉ đạo thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và của các sở, ngành chức năng, Văn phòng Thừa phát lại Bình Định được thành lập theo Quyết định số 310/QĐ-UBND ngày 27/1/2014 của ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định. Đây là Văn phòng Thừa phát lại đầu tiên của các tỉnh Duyên hải Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Văn phòng Thừa phát lại Bình Định bắt đầu hoạt động tính đến nay là 01 năm.

1. Một số kết quả thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại tỉnh Bình Định

Thời gian đầu,hoạt động Thừa phát lại Bình Định chủ yếu tập trung vào việc quảng bá chức năng, nhiệm vụ và tổ chức hoạt động của Văn phòng dưới nhiều hình thức như in, phát trên 200.000 tờ rơi, thư ngỏ đến các hộ dân ở các tuyến đường giao thông, các doanh nghiệp, các cơ quan ở thành phố Quy Nhơn và các huyện, thị xã lân cận. Tuyên truyền qua các báo trung ương và địa phương, trên Trang thông tin điện tử… Sau một năm triển khai hoạt động, Thừa phát lại Bình Định đã tiến hành một số hoạt động và đạt được kết quả như sau:

1.1. Hoạt động tống đạt

Tống đạt là hoạt động chức năng của Thừa phát lại theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, góp phần giảm tải cho các cơ quan Tòa án và Thi hành án dân sự, nhằm tạo điều kiện để các cơ quan này tập trung cho công tác chuyên môn chính thuộc về chức năng của mình.

Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã tống đạt tổng số: 1.227 văn bản, thu được là 75.679.000 đồng. Trong đó:

+ Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Định: 20 văn bản, thu được 1.430.000 đồng.

+ Chi cục thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn 821 văn bản, thu được 52.820.000 đồng.

+ Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn: 373 văn bản, thu được: 24.135.000 đồng.

+ Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định: 13 văn bản, thu được là 1.325.000 đồng.

1.2. Hoạt động lập vi bằng

Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác.

Thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại lần đầu tiên được quy định một cách khái quát tại Điều 25 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP. Cũng theo quy định này, trừ những trường hợp bị pháp luật cấm như “các trường hợp về đảm bảo an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội và các trường hợp bị pháp luật cấm”, thì Thừa phát lại có quyền lập vi bằng. Với phạm vi thẩm quyền lập vi bằng rộng như vậy đã giúp ích nhiều cho công dân tạo lập chứng cứ.

Vi bằng chính là thế mạnh của Thừa phát lại. Ngoài Thừa phát lại, không có một hệ thống cơ quan nào giúp người dân xác lập chứng cứ theo yêu cầu của họ một cách kịp thời và thuận lợi, người dân có thể đến Văn phòng Thừa phát lại với thủ tục giản đơn, nhanh chóng và không hạn chế về thời gian. Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đến tháng 8 năm 2014 đã lập 03 vi bằng và đã đăng ký tại Sở Tư pháp tỉnh Bình Định, với số tiền thu là: 5.400.000 đồng. Nội dung vi bằng thể hiện phong phú trên nhiều lĩnh vực, đã có tác dụng thiết thực, bước đầu được dư luận trong xã hội biết và ủng hộ.

1.3. Hoạt động xác minh điều kiện thi hành án

Việc xác minh điều kiện thi hành án là một tiền đề mang tính tiên quyết trong khâu tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, người dân lại không đủ điều kiện để tiến hành công việc này. Với sự ra đời của tổ chức Thừa phát lại sẽ giúp công dân có thêm công cụ hỗ trợ một cách tích cực, để đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thực thi thủ tục thi hành án của cơ quan thi hành án dân sự.

Trong thời gian qua, Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã tiến hành xác minh điều kiện thi hành án: 52 bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho cá nhân, tổ chức. Tổng số tiền thu được là: 141.200.000 đồng.

1.4. Hoạt động tổ chức thi hành án

Thi hành án là một quá trình tiến hành các thủ tục, đưa các bản án, quyết định của Tòa án vào thực tiễn theo quy định của pháp luật. Đây là hoạt động trực tiếp tác động đến quyền lợi của các bên thi hành án, nên từ trước đến nay, các cơ quan thi hành án của Nhà nước thực hiện còn gặp rất nhiều khó khăn. Đối với Văn phòng Thừa phát lại, do còn rất mới mẻ, lại là tổ chức xã hội hóa, nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án dân sự chưa được đào tạo, tập huấn nên việc tiến hành thi hành án hiện nay gặp nhiều khó khăn hơn, một năm qua, Văn phòngThừa phát lại Bình Định chưa thực hiện việc thi hành án nào.

Như vậy, sau một năm thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại tỉnh Bình Định, được sự quan tâm giúp đỡ của cả hệ thống chính trị tỉnh, nên Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đã đạt được một số kết quả bước đầu khả quan, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm, là cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc tiếp tục triển khai chế định Thừa phát lại, để thành lập các văn phòng Thừa phát lại tiếp theo tại tỉnh Bình Định và trên phạm vi cả nước.

2. Những khó khăn, vướng mắc mà Thừa phát lại Bình Định đã gặp

Qua thực tiễn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại ở Bình Định, chúng tôi xin nêu lên một số khó khăn cụ thể như sau:

2.1. Về chi phí cho công tác thực hiện việc tống đạt

Thực hiện Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội (Thông tư số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC), công tác tống đạt hiện tại Văn phòng Thừa phát lại Bình Định đang thực hiện có rất nhiều vất vả, thực tế chi phí cho việc tống đạt khá cao, nhưng mức phí tống đạt lại thấp và nhiều bất cập.

Khó khăn cơ bản trong công tác tống đạt, xuất phát từ những quy định của Luật Thi hành án dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự chưa rõ ràng và công tác này chưa được luật hóa, nên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi thực hiện. Do đó, khi Thừa phát lại thực hiện tống đạt, thì hình thức, thủ tục, văn bản tống đạt của Tòa án lại khác với hình thức văn bản tống đạt của cơ quan thi hành án dân sự, vấn đề này chưa được hướng dẫn để thống nhất thực hiện.

Ví dụ: Giấy triệu tập đương sự do hệ thống cơ quan Tòa án quy định, khi thực hiện tống đạt chỉ cần người trực tiếp tiến hành tống đạt thực hiện và đương sự (người nhận) là đủ. Trường hợp đương sự (người nhận) không có ở địa chỉ cư trú, thì mới nhờ đến cán bộ tư pháp phường, xã để tống đạt hoặc xác nhận khi Thừa phát lại tiến hành tống đạt.

Về thủ tục tống đạt văn bản của cơ quan thi hành án dân sự: Hình thức trong văn bản tống đạt theo mẫu của Thông tư số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC, ngoài Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ, còn có sự chứng kiến, xác nhận của cán bộ khối phố, cán bộ tư pháp xã, phường hoặc Công an khu phố thì mới đủ điều kiện hợp lệ và được thanh toán chi phí tống đạt. Nếu đương sự không có mặt tại nơi cư trú, thì cũng cần có đủ các thành phần như đã nêu trên mới tiến hành niêm yết hợp lệ (hai trường hợp được nêu trên đều phải thực hiện đúng và đủ thành phần, mới được coi là hợp lệ). Như vậy, do cơ chế phối hợp, Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ không thể tự mình thực hiện việc tống đạt, mà phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của ủy ban nhân dân và Công an phường, xã. Văn bản tống đạt trực tiếp cho đương sự theo quy định phải có cả khuôn dấu của ủy ban nhân dân phường, xã.

Theo chúng tôi, cần phải quy định riêng về thủ tục tống đạt của Thừa phát lại theo hướng: Văn phòng Thừa phát lại tự chịu trách nhiệm về tính xác thực của các biên bản mà Thừa phát lại lập; còn đối với trường hợp tống đạt trực tiếp, tống đạt qua người thứ ba hoặc niêm yết, thì chỉ cần xác nhận của Thừa phát lại là đủ điều kiện về pháp lý.

2.2.Về lập vi bằng

Khi thực hiện theo Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại tiến hành thuận lợi, do Thừa phát lại có được quyền chủ động thực hiện, không phụ thuộc nhiều vào bên thứ ba. Tuy nhiên, khi Nghị định số 61/2009/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại TP. Hồ Chí Minh, đã có nhiều nội dung thay đổi quan trọng liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại. Trong đó phạm vi thẩm quyền lập vi bằng bị thu hẹp hơn, tức là bổ sung quy định Thừa phát lại không được lập vi bằng “các trường hợp thuộc thẩm quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân các cấp”, đồng thời với việc thêm quy định Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng của Thừa phát lại. Vấn đề này hiện nay còn nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình xác định thẩm quyền xác lập và đăng ký vi bằng.

Thực hiện Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại đã có một số chú ý:

- Không lập vi bằng chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; không xác nhận chữ ký và bản sao từ bản chính (là thẩm quyền thuộc tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp).

- Không lập vi bằng các sự kiện và hành vi nhằm thực hiện các giao dịch trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng, trừ trường hợp sự kiện, hành vi trái pháp luật do người khác thực hiện ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng.

- Không lập vi bằng các hành vi, sự kiện của cán bộ công chức đang thi hành công vụ, trừ trường hợp các sự kiện, hành vi đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người yêu cầu lập vi bằng.

- Không lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện, hành vi mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ thông qua lời kể của người khác.

Thực tiễn lập vi bằng, chúng tôi thấy có một số băn khoăn đối với các trường hợp như sau:

Ví dụ 1: Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận các bên tiến hành tự thảo luận và thỏa thuận giao (nhà ở) tài sản, giao tiền đặc cọc, giao tiền cho vay, mượn và giao sổ tiền gửi tiết kiệm, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Thừa phát lại lập vi bằng xác nhận sự kiện, hành vi để làm chứng cứ khi cần thiết.

Ví dụ 2: Các bên mua bán nhà bằng giấy viết tay, nay nhờ Thừa phát lại lập vi bằng ghi nhận việc các bên có giao nhận tiền. Sự kiện Thừa phát lại lập vi bằng chính là việc giao nhận tiền giữa các bên. Trong việc giao dịch mua bán nhà, đất của các bên chỉ được xem xét khi có tranh chấp khởi kiện đến Tòa án. Việc Thừa phát lại lập vi bằng, thì vi bằng chính là chứng cứ về việc các bên có sự giao nhận tiền, làm cơ sở chứng cứ cho Tòa án giải quyết hậu quả pháp lý vụ án.

Ví dụ 3: Vợ, chồng có ngôi nhà cấp 4 tọa lạc trên mảnh đất 80m2 (đất được tồn tại lâu đời ổn định tại khu dân cư) chưa được cấp giấy quyền sử dụng đất, đất không có tranh chấp. Trước khi ly hôn, vợ, chồng tự nguyện thỏa thuận bàn giao nhà cho vợ để ở nuôi con, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Các đương sự yêu cầu Thừa phát lại lập vi bằng việc giao ngôi nhà là tài sản của họ. Thừa phát lại lập vi bằng việc giao nhận ngôi nhà này chỉ ghi nhận sự kiện, hành vi việc giao nhận ngôi nhà là tài sản của vợ chồng trước khi ly hôn. Thẩm quyền lập vi bằng và đăng ký vi bằng trong những trường hợp nêu trên có nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này theo chúng tôi, thì việc Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận giữa hai vợ, chồng giao ngôi nhà cho một bên là nhằm để làm cơ sở cho việc xác định tài sản này là do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân hợp pháp. Tuy rằng việc xác định quyền sử dụng đất (sổ đỏ) chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, đây cũng chỉ là vấn đề thủ tục và thời gian, mà không thể không công nhận, bởi vì, đất không có tranh chấp. Chúng tôi cho rằng những trường hợp này lập vi bằng là phù hợp, để người dân tạo lập chứng cứ, nếu có tranh chấp thì có cơ sở giải quyết.

2.3. Về tổ chức thi hành án

Trong công tác thi hành án dân sự, cần có sự vào cuộc, cộng tác thực sự của các ngành và có thể cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, vấn đề vướng mắc cơ bản và cốt lõi đó là, trong công tác tổ chức thi hành án dân sự hiện nay của Thừa phát lại chưa được pháp luật về thi hành án dân sự quy định, trao quyền cụ thể. Bước đầu chỉ thực hiện quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP.

Về công tác tổ chức nhân sự, vẫn còn hạn chế trong giai đoạn thí điểm; về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng công tác thi hành án dân sự, chưa được nghiên cứu tập huấn. Do đó, tính chủ động việc thi hành án dân sự của Thừa phát lại vẫn còn khó khăn.

Từ các vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn, chúng tôi xin kiến nghị:

Để hoạt động Thừa phát lại có thể triển khai có hiệu quả, thì cần thường xuyên mở các lớp đào tạo, tập huấn cho Thừa phát lại cho đội ngũ chuẩn bị tham gia làm Thừa phát lại và thư ký nghiệp vụ, đặc biêt là về kỹ năng trong công tác thi hành án, nhằm trang bị kỹ năng và để tạo nguồn. Thời gian đào tạo, tập huấn cần tăng hơn so với trước. Các cơ quan thi hành án và Tòa án cũng mạnh dạn tạo điều kiện, giao cho Thừa phát lại văn bản để tống đạt cho đương sự, góp phần giảm tải cho các cơ quan này.

Pháp luật chuyên ngành của Thừa phát lại cũng cần xúc tiến xây dựng, để chuẩn bị cho sự ra đời kịp thời và thực thi trong thời gian tới .

Công tác tuyên truyền cần được tăng cường dưới nhiều hình thức và thường xuyên, liên tục để cộng đồng dân cư trong xã hội hiểu biết nhiều hơn về chế định Thừa phát lại và từ đó có sự lựa chọn dịch vụ lập vi bằng, xác minh thi hành án và thi hành án, góp phần hạn chế tranh chấp và tạo chứng cứ khi giải quyết các tranh chấp.

Trương Việt Kon Tum

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm