Thứ hai 09/06/2025 12:04
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ tại Điều 260 Bộ luật Hình sự

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015)

Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là Bộ luật Hình sự năm 2015), so với Bộ luật Hình sự năm 1999[1] có sự thay đổi về tên tội danh theo hướng mở rộng chủ thể của tội phạm không chỉ áp dụng đối với người điều khiển phương tiện giao thông mà áp dụng đối với tất cả các chủ thể tham gia giao thông đường bộ bao gồm cả chủ thể không điều khiển phương tiện như người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ. Việc sửa đổi này hoàn toàn phù hợp Luật Giao thông đường bộ năm 2008 và giải quyết triệt để các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với các trường hợp người không điều phương tiện tham gia giao thông thực hiện hành vi phạm.

1. Cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

1.1. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội phạm này cũng phải đáp ứng đủ các điều kiện về chủ thể tội phạm nói chung đó là có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi chịu TNHS theo luật định. Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự người đủ 16 tuổi trở lên không ở trong tình trạng không có năng lực TNHS [2] tham gia giao thông đường bộ vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác về tính mạng, sức khỏe và tài sản thuộc một trong các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đều chủ thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Bộ luật Hình sự không đưa ra khái niệm thế nào là người gia giao thông đường bộ. Tuy nhiên, căn cứ vào khoản 22 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định: “Người tham gia giao thông bao gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”.

Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải là chủ thể của tội phạm này trong mọi trường hợp những đối tượng này thực hiện hành vi phạm không bị truy cứu TNHS.

1.2. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là trật tự an toàn giao thông đường bộ do nhà nước quy định. Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định thế nào là trật tự an toàn giao thông đường bộ. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn pháp luật của cơ quan có thẩm quyền có thể xác định được trật tự an toàn giao thông đường bộ là những quy định nhằm bảo đảm an toàn giao thông vận tải, bảo đảm cho hoạt động vận tải đường bộ được thông suốt, tiến hành bình thường, bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công dân, bảo vệ tài sản của nhà nước, của các tổ chức và tài sản của công dân[3].

1.3. Mặt khách quan của tội phạm

- Hành vi khách quan

Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác[4]. Việc xác định hành vi vi phạm ngoài căn cứ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự phải căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ và các văn bản hướng dẫn pháp luật của cơ quan có thẩm quyền để xem xét đảm bảo tính chính xác khi giải quyết vụ án hình sự.

Hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ được thể hiện phổ biến ở hai dạng: Hành vi vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và hành vi vi phạm khác không điều khiển phương tiện giao thông đường bộ[5].

Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 không quy định thế nào phương tiện giao thông đường bộ cần căn cứ vào Luật Giao thông đường bộ 2008 để xác định: Phương tiện giao thông đường bộ gồm phương tiện giao thông cơ giới đường bộ, phương tiện giao thông thô sơ đường bộ. Phương tiện giao thông cơ giới đường bộ (sau đây gọi là xe cơ giới) gồm xe ô tô; máy kéo; rơ moóc hoặc sơ mi rơ moóc được kéo bởi xe ô tô, máy kéo; xe mô tô hai bánh; xe mô tô ba bánh; xe gắn máy (kể cả xe máy điện) và các loại xe tương tự. Phương tiện giao thông thô sơ đường bộ (sau đây gọi là xe thô sơ) gồm xe đạp (kể cả xe đạp máy), xe xích lô, xe lăn dùng cho người khuyết tật, xe súc vật kéo và các loại xe tương tự[6].

(i). Hành vi vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông thường tập trung ở một số nhóm hành vi sau:

- Hành vi vi phạm về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn của phương tiện giao thông: Điều khiển xe khi không có đầy đủ các loại đèn chiếu sáng, hệ thống hãm kém hiệu lực, hệ thống chuyển hướng, bánh lốp rơ mòn quá mức quy định hoặc không đúng kích cỡ, tiêu chuẩn kỹ thuật của từng loại xe… Trên thực tế không phải trường hợp nào người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ cũng nhận biết được những thiếu sót về mặt kỹ thuật của phương tiện và luật cũng không buộc họ phải nhận biết được lỗi kỹ thuật. Ví dụ, trường hợp phương tiện giao thông xuất xưởng không đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật theo quy định khi tham gia giao thông để xảy ra sự cố kỹ thuật dẫn đến tai nạn. Trường trường hợp này người điều kiển phương tiện không phải chịu TNHS.

- Hành vi phạm quy định về điều kiện người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ: Không đạt độ tuổi và sức khỏe theo quy định, không có giấy phép lái xe phù hợp với loại xe điều khiển do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp…

- Hành vi vi phạm về quy tắc tham gia giao thông đường bộ: Không chấp hành báo hiệu đường bộ, vi phạm tốc độ và khoảng cách giữa các xe, vi phạm chuyển hướng xe, lùi xe, tránh xe đi ngược chiều, không nhường đường tại nơi đường giao nhau, đoạn đường bộ giao cắt với đường sắt, vi phạm quy định về dừng xe, đỗ xe, vi phạm quy định khi qua phà, qua cầu, vi phạm quy định về giao thông trên đường cao tốc, trong hầm đường bộ, vi phạm quy định về bảo đảm trọng tải và khổ giới hạn của đường bộ, vi phạm quy định về kéo xe, kéo rơ moóc, đội mũ bảo hiểm…

- Hành vi vi phạm quy định vận tải đường bộ: Chở hàng hóa, chở hành khánh quá tải trọng của xe, xếp hàng hóa trên xe cồng kềnh, hàng to quá khổ, chở hàng độc hại, dễ cháy nổ sai quy định…[7].

(ii) Hành vi vi phạm khác không điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ nhưng có tham gia giao thông đường bộ:

Hành vi vi phạm không điều khiển phương tiện giao thông nhưng có tham gia giao thông như hành vi điều khiển xe máy chuyên dùng (gồm xe máy thi công, xe máy nông nghiệp, lâm nghiệp và các loại xe đặc chủng khác sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh có tham gia giao thông đường bộ)[8], người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ, chạy bộ trên đường bộ…

1.4. Hậu quả

Hậu quả của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông là những thiệt hại về vật chất (thiệt hại về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác) do hành vi phạm tội là nguyên nhân trực tiếp gây ra, hậu quả có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ với hành vi phạm tội. Dấu hiệu hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc trong hầu hết các khoản của điều luật (trừ trường trường hợp quy định tại khoản 4). Cần phân biệt hậu quả của tội phạm là căn cứ định tội và hậu quả thực tế của tội phạm. Hậu quả tội phạm là căn cứ định tội là những thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả thực tế của tội phạm ngoài những thiệt hại trực tiếp do hành vi phạm tội gây ra còn có những thiệt hại gián tiếp khác do bị thương phải chi phí cho việc điều trị và các chi phí khác…

1.5. Mặt chủ quan

Người thực hiện hành vi phạm quy định về tham gia giao thông với lỗi vô ý có thể là vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả. Vô ý vì quá tự tin là trường hợp người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Vô ý vì cẩu thả là trường hợp người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó[9].

Đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử và trong khoa học pháp lý còn có quan điểm về “lỗi hỗn hợp”. Bộ luật Hình sự chỉ đưa ra khái niệm “lỗi cố ý”, “lỗi vô ý” không đề cấp đến “lỗi hỗn hợp”. Trong khoa học pháp lý chưa có khái niệm thống nhất về “lỗi hỗn hợp”. Có quan điểm đề cập “lỗi hỗn hợp” là lỗi cố ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và vô ý đối với hậu quả do hành vi đó gây ra, cũng có quan điểm gọi trường hợp này là “hỗn hợp lỗi”[10]. Quan điểm này không đúng với bản chất của lỗi vì lỗi là thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Không phải lỗi là chỉ thể hiện đối với hành vi hoặc chỉ đối với hậu quả.

Quan điểm khác “lỗi hỗn hợp” là trường hợp chỉ thái độ tâm lý của nhiều người đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội mà họ cùng đã gây ra. Ví dụ: Lỗi của cả hai bên gây ra hậu quả đối với người thứ ba trường hợp này được thừa nhận phổ biến trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử hiện nay[11].

Trên cơ sở nghiên lý luận về cấu thành tội phạm của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ giúp cho người làm công tác nghiên cứu pháp luật và người làm công tác áp dụng pháp luật nhận thức đúng và chính xác bản chất của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, giúp phân biệt các hành vi vi phạm pháp luật thuộc tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, phân biệt tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ với các tội phạm khác xâm phạm trật tự, an toàn giao thông như tội cản trở giao thông đường bộ…

2. Những vấn đề cần lưu ý trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

Một là, định tội danh đối với trường hợp người điều khiện phương tiện tham gia giao thông đường bộ gây tai nạn ở những nơi không phải là đường giao thông như sân trường, bến bãi, công trường…

Trường hợp phương tiện giao thông đường bộ di chuyển, hoạt động nhưng không tham gia giao thông đường bộ (như di chuyển hoạt động trong trường học, công trường đang thi công hoặc đang khai thác) mà gây tai nạn thì hành vi của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không phải là hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ nên không bị truy cứu TNHS về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tùy từng trường hợp mà bị truy cứu TNHS về tội phạm tương ứng khác nếu thỏa mãn dấu hiệu tội phạm đó như “Tội vô ý làm chết người” (Điều 128); “Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” (Điều 129); “Tội vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người” (Điều 295)… quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015[12].

Quy định trên hướng dẫn Điều 202 Bộ luật Hình sự 1999 là phù hợp nhưng chưa đầy đủ khi chỉ về quy định về “phương tiện giao thông đường bộ”. Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có sự thay đổi về tên tội danh từ “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” nên quy định cần áp dụng chung đối phương tiện tham gia giao thông[13], bao gồm cả “xe máy chuyên dùng” gây tai nạn khi không tham gia giao thông đường bộ như ủi xúc đất, san lấp, cày ruộng, cẩu hàng…

2. Xác định hậu quả là căn cứ để định tội

Xác định thiệt hại về tài sản là căn cứ định tội cần chú ý thiệt hại phải là thiệt hại về tài sản của người khác. Tuy nhiên, đối với trường hợp tài sản nhận được thông qua hợp đồng dân sự (ví dụ: Tài xế lái xe thuê, thuê xe qua hợp đồng) thì không phải chịu TNHS trong việc gây thiệt hại về tài sản cho chủ xe vì vấn đề này đã được điều chỉnh bởi quan hệ pháp luật dân sự. Hiện nay, vẫn chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng chính thức quy định này, mà mới chỉ có văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngành Tư pháp[14].

3. Định tội trong trường hợp lỗi hỗn hợp

Vấn đề giải quyết vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp xác định hai bên cùng thực hiện hành vi vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp gây hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe tài sản cho người thứ ba. Cả hai bên cùng có lỗi hay còn gọi là lỗi hỗn hợp. Trường hợp này khởi tố cả hai bên hay chỉ khởi tố một bên còn có những quan điểm khác nhau về mặt lý luận và thực tiễn áp dụng.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trường hợp hai bên cùng có lỗi gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho bên thứ ba thì không thể khởi tố cả hai bên liên quan mà chúng ta chỉ có thể khởi tố đối với một trong hai bên liên quan. Nếu khởi tố cả hai bên vô hình chung đã coi đây là đồng phạm trong vụ án, cả hai cùng là người thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, về mặt lý luận đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên, cố ý cùng thực hiện một tội phạm, có sự thống nhất về ý chí và phải là lỗi cố ý. Trong vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ chỉ là lỗi vô ý và không thể có đồng phạm.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Trường hợp hai bên cùng có lỗi gây ra thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản cho bên thứ ba cần phải khởi tố cả 02 bên vì cả hai bên cùng có lỗi vi phạm Luật Giao thông đường bộ là nguyên nhân trực tiếp gây ra tai nạn giao thông, có hậu quả xảy ra nên cả hai bên cùng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả đó[15].

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai vì trong trường hợp này cả hai bên cùng thực hiện hành vi vi phạm về tham gia giao đường bộ độc lập nhưng cả hai hành vi gây ra hậu quả chung. Xét về yếu tố lỗi hai bên cùng có lỗi trực tiếp gây ra thiệt hại nên không thể khởi tố một bên như quan điểm thứ nhất, nếu khởi tố một bên là bỏ lọt tội phạm, không thể đánh đồng mọi trường hợp cùng thực hiện tội phạm phải là đồng phạm. Tuy nhiên, cần xác định rõ mức độ lỗi của từng bên để làm căn cứ khởi tố.

4. Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ

Do tính phức tạp của tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ các công tác điều tra ban đầu như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, trưng cầu giám định về nồng đồ cồn, ma túy, trưng cầu giám định về thương tích, tài sản, thu thập tài liệu, chứng cứ là dữ liệu điện tử tại hiện trường (Nếu có), lấy lời khai người làm chứng… có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án. Vì vậy, công tác điều tra ban đầu phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, không được vi phạm thủ tục tố tụng để đảm bảo cho quá trình giải quyết vụ án được chính xác và có căn cứ.

Trong thực tiễn điều tra, truy tố xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ bên cạnh việc nhận thức những vấn đề lý luận về cấu thành tội phạm của loại tội này cần nắm chắc các quy định của Bộ luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ, các văn bản hướng dẫn pháp luật của cơ quan có thẩm quyền, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Ngành Tòa án, Viện kiểm sát đặc biệt những vấn đề cần lưu ý trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như tác giả vừa trình bày ở trên là hết sức cần thiết tránh các trường hợp oan sai, sót lọt tội phạm./.

Hoàng Nguyên Thắng
Viện kiểm sát quân sự khu vực 11


[1] Điều 202 Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ Bộ luật Hình sự năm 1999.

[2] Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Đinh Văn Quế, “Bình luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, Tạp chí Kiểm sát 11/2020, tr 23.

[4] Khoản 1 Điều 3 Thông tư số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày ngày 28/08/2013 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông.

[5] Đinh Văn Quế, “Bình luận về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”, Tạp chí Kiểm sát 11/2020, tr 23.

[6] Khoản 17, 18, 19 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008.

[7] Tài liệu tập huấn nghiệp vụ xét xử đợt II - năm 2014 của Tòa án Nhân dân tỉnh Bắc Ninh, tr.58 – tr.59.

[8] Khoản 20 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008.

[9] Khoản 1, 2 Điều 11 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[10] Trường hợp hỗn hợp lỗi trong luật hình sự

[11] Giải quyết án tai nạn giao thông trong trường hợp lỗi hỗn hợp gây hậu quả cho người thứ ba,

[12] Thông tư số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC (theo trích dấn số 3).

[13] Khoản 22 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ 2008.

[14] Mục 3 Công văn số 3129/VKSTC-V1A về việc hướng dẫn giải quyết án tai nạn giao thông, ngày 10/7/2009 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

[15] Giải quyết án tai nạn giao thông trong trường hợp lỗi hỗn hợp gây hậu quả cho người thứ ba (theo trích dẫn số 5).

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).
Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bảo đảm tính đồng bộ giữa Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Luật Đất đai năm 2024

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) có hiệu lực khi Luật Đất đai năm 2003 chưa được sửa đổi nên có một số quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong Bộ luật Hình sự năm 2015 và Luật Đất đai năm 2024 chưa có sự đồng bộ. Do đó, cần tiếp tục nghiên cứu các quy định liên quan đến lĩnh vực đất đai trong hai văn bản này nhằm bảo đảm tính đồng bộ để đáp ứng được yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển bền vững kinh tế biển - động lực đưa Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển

Phát triển kinh tế biển được coi là một động lực tăng trưởng mới, nhất là đối với các quốc gia có bờ biển dài như Việt Nam. Việc hướng tới một nền kinh tế biển xanh trên cơ sở bảo tồn, phát huy các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là các nguồn tài nguyên có thể tái tạo như: điện gió, điện mặt trời, du lịch sinh thái… được xem là giải pháp lâu dài, bền vững thúc đẩy Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.
Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng hệ thống tổ chức Tòa án nhân dân đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là một trong những nội dung được các đại biểu quan tâm tại cuộc họp góp ý đối với Hồ sơ dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân ngày 12/4/2025. Đồng chí Lê Thị Vân Anh, Phó Vụ trưởng Vụ pháp luật hình sự - hành chính, Bộ tư pháp chủ trì cuộc họp.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm