Chủ nhật 22/06/2025 21:57
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn và vướng mắc của Quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề

Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 thì “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Để đảm bảo Quản tài viên thực hiện tốt chức năng trên, Luật đã có nhiều quy định về điều kiện hành nghề, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên.

Theo đó, đội ngũ này có nhiệm vụ xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ; lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của thẩm phán... Quản tài viên bắt đầu tham gia vụ việc khi được thẩm phán chỉ định và kết thúc khi chấp hành viên thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quy định về quản tài viên trong Luật Phá sản năm 2014 được kỳ vọng sẽ giúp quá trình thanh lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhanh hơn. Vậy nhưng, trên thực tế, quá trình thực thi chức trách của quản tài viên đang gặp nhiều khó khăn. Bài viết dưới đây đã nêu ra thực tiễn và vướng mắc của quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề qua đó đóng góp những ý kiến, phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản tài viên đối với chức năng, quyền và nghĩa vụ, cũng như trách nhiệm pháp lý nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014, thì quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Để bảo đảm quản tài viên thực hiện tốt chức năng trên, pháp luật quy định về điều kiện hành nghề, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của quản tài viên. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động hành nghề của quản tài viên trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần có cơ chế cụ thể để hoạt động đạt hiệu quả.

1. Giai đoạn tiếp nhận vụ việc phá sản

Theo quy định tại Điều 45 Luật Phá sản năm 2014, thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán có trách nhiệm chỉ định quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong văn bản chỉ định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải có nội dung tạm ứng chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Về vấn đề này có một số khó khăn, vướng mắc sau:

1.1. Việc bán tài sản để bảo đảm chi phí phá sản

Theo khoản 3 Điều 23 Luật Phá sản năm 2014, thì: “Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản. Việc định giá, định giá lại và bán tài sản được thực hiện theo quy định tại các điều 122, 123 và 124 của Luật này”.

Về vấn đề này cần làm rõ, Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản kể từ thời điểm nào? Đồng thời, cần có văn bản hướng dẫn cách thức lựa chọn tài sản để bán, phương thức bán tài sản, chi phí định giá tài sản, cách thức quản lý tiền thu được từ việc bán tài sản trong trường hợp này.

1.2. Về quản lý tiền tạm ứng chi phí phá sản

Trong một số trường hợp, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản hoặc Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định hướng dẫn về việc quản lý số tiền tạm ứng chi phí phá sản này. Theo pháp luật hiện hành, thì Tòa án nhân dân sẽ mở tài khoản tại ngân hàng để nhận tiền tạm ứng chi phí. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể Tòa án sẽ phải mở tài khoản riêng cho từng vụ việc phá sản hay mở tài khoản chung cho tất cả các vụ việc phá sản?

1.3. Về chỉ định quản tài viên

Chưa quy định rõ số lượng quản tài viên được chỉ định cho mỗi vụ việc. Vì vậy, cần làm rõ, trong trường hợp thẩm phán chỉ định quản tài viên thì số lượng quản tài viên được chỉ định là bao nhiêu? Trong trường hợp quản tài viên chỉ định doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, thì doanh nghiệp này được cử bao nhiêu quản tài viên để thực hiện vụ việc?

Trong trường hợp thẩm phán chỉ định nhiều hơn một quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản tham gia vụ việc phá sản, thì nhiệm vụ, quyền hạn của các quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản được quy định như thế nào? Các quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phối hợp thực hiện các công việc hay mỗi người được phân công một nhóm công việc cụ thể, riêng biệt và tự mình chịu trách nhiệm đối với việc mình được phân công?

2. Công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản sau khi nhận chỉ định tham gia vụ việc phá sản đến khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản

Sau khi được chỉ định là doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản của vụ việc phá sản, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phải thực hiện một số công việc liên quan đến các biện pháp bảo toàn tài sản, hội nghị chủ nợ… cho đến khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Về các công việc này, có một số vướng mắc như:

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Phá sản năm 2014, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, tổng thời gian cho việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp tối đa không quá 90 ngày. Với thời gian ngắn như trên, thì việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp có tài sản ở nhiều quốc gia khác nhau.

Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ tổ chức kiểm kê, xác định lại tài sản theo quyết định của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định thời hạn cụ thể thực hiện việc kiểm kê, xác định lại tài sản của doanh nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức hội nghị chủ nợ vì hội nghị chủ nợ được triệu tập trong vòng 20 ngày kể từ ngày kết thúc việc kiểm kê tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Phá sản năm 2014). Như vậy, nếu việc kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản này bị kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức hội nghị chủ nợ.

- Trường hợp những chủ nợ tại nước ngoài của doanh nghiệp vì lý do địa lý xa xôi, khó khăn để tiếp cận thông tin và một số lý do khác không do lỗi của chủ nợ, dẫn đến việc chủ nợ không được biết về việc phá sản của doanh nghiệp để gửi giấy đòi nợ, thì pháp luật hiện tại chưa có quy định các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho những chủ nợ này.

- Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm xem xét giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, nếu phát hiện giao dịch quy định tại khoản 1 (các giao dịch trong vòng 06 tháng trước ngày quyết định mở thủ tục phá sản) và khoản 2 (các giao dịch trong vòng 18 tháng trước ngày quyết định mở thủ tục phá sản) Điều 59 Luật Phá sản, thì đề nghị Tòa án nhân dân xem xét tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Đối với những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có quy mô lớn, có giao dịch ở nhiều quốc gia, thì việc xem xét các giao dịch trong vòng 18 tháng là một khối lượng công việc vô cùng lớn, quản tài viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện công việc này. Mặt khác, đối với những giao dịch có dấu hiệu vi phạm quy định tại Điều 59 Luật Phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ yêu cầu Tòa án nhân dân xem xét giao dịch vô hiệu. Một vụ án mà Tòa án nhân dân tuyên một giao dịch vô hiệu có thể mất nhiều thời gian, điều này ảnh hướng đến thời hiệu thực hiện các công việc khác được quy định tại Luật Phá sản.

- Theo quy định là ngay sau khi mở thủ tục phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định (Điều 53 Luật Phá sản năm 2014). Vấn đề này cần phải quy định rõ thời hạn đề xuất và xử lý khoản nợ có bảo đảm một cách cụ thể, vì có những tài sản sẽ bị giảm giá trị, tiêu hao theo thời gian ảnh hưởng đến giá trị tài sản của doanh nghiệp.

- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện một số hoạt động. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, hợp tác xã, thì quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm trả lời cho doanh nghiệp, hợp tác xã việc được thực hiện hoặc không được thực hiện các hoạt động này và phải chịu trách nhiệm về việc trả lời của mình. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải báo cáo thẩm phán về nội dung trả lời của mình (Điều 49 Luật phá sản năm 2014).

Quản tài viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện việc xem xét các hoạt động và trả lời doanh nghiệp chỉ trong ba ngày làm việc kể từ ngày nhận báo cáo của doanh nghiệp, vì trên thực tế có rất nhiều hoạt động phức tạp, cần ý kiến của chuyên gia trước khi đưa ra quyết định, do đó ba ngày là một thời hạn quá ngắn để quản tài viên đưa ra một quyết định chính xác cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Cùng với đó, trách nhiệm của quản tài viên trong trường hợp này cần được xem xét lại là phối hợp với thẩm phán để việc trả lời về một số hoạt động của doanh nghiệp phải báo cáo được chính xác, hợp lý.

Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, chúng tôi gặp những vấn đề liên quan đến việc làm thế nào để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp hợp đồng thuê dịch vụ liên quan đến di dời, vận chuyển tài sản, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác không thuộc những hoạt động bị cấm của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và không thuộc những hoạt động phải báo cáo xin ý kiến quản tài viên, trong khi những hợp đồng này có giá trị không nhỏ?

3. Công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản sau khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản đến khi định giá, bán tài sản

Sau khi Tòa ra tuyên bố doanh nghiệp phá sản, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản cần thực hiện việc định giá tài sản và bán đấu giá tài sản. Về vấn đề này có một số vướng mắc như sau:

- Về việc định giá tài sản: Pháp luật hiện hành chưa có quy định về định giá lại tài sản khi tài sản bị hao mòn, giảm giá trị do tổ chức đấu giá nhiều lần nhưng chưa có người mua.

- Về việc bán đấu giá tài sản: Pháp luật hiện hành chưa quy định về việc tổ chức bán đấu giá không thành thì có tổ chức đấu giá lại đối với tài sản đó hay không? Tổ chức đấu giá lại bao nhiêu lần? Nếu đã quá nhiều lần tổ chức mà không bán được tài sản thì xử lý như thế nào? Ngoài ra, cần bổ sung quy định về giảm giá tài sản nếu tài sản đã tổ chức đấu giá nhưng chưa có người mua.

- Về việc định giá và bán đấu giá tài sản ở nước ngoài: Luật Phá sản năm 2014 chưa có quy định về việc định giá và bán đấu giá tài sản đang ở nước ngoài của doanh nghiệp. Điều này gây ra nhiều bất cập, vì thời hạn định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Phá sản năm 2014 là: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định giá tài sản theo quy định của pháp luật” và thời hạn đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 124 Luật Phá sản năm 2014: “Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản”. Những thời hạn này chỉ hợp lý khi áp dụng đối với những tài sản đang ở Việt Nam, đối với những tài sản ở nước ngoài thì không còn hợp lý. Do vậy, cần có quy định về định giá và bán đấu giá tài sản đối với những tài sản của doanh nghiệp đang ở nước ngoài.

4. Về lệ phí phá sản và chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

- Chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được quy định cụ thể tại Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về mức thù lao của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản đối với trường hợp doanh nghiệp phá sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có nghị quyết của hội nghị chủ nợ đề nghị tuyên bố phá sản (Điều 107 Luật Phá sản năm 2014). Vì thế, việc tính chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ khó khăn trong thực tế áp dụng.

- Về việc phân chia tài sản sau khi bán đấu giá tài sản: Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014, thì sau khi nhận được báo cáo của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về kết quả thanh lý tài sản, chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Như vậy, việc phân chia tài sản sẽ được thực hiện sau khi có báo cáo về việc thanh lý tài sản. Trên thực tế, trong lần bán đấu giá tài sản thanh lý đầu tiên của doanh nghiệp phá sản, các tài sản bị thanh lý có thể không được bán hết, vì một số tài sản không tìm được người mua, như vậy thì báo cáo về kết quả thanh lý tài sản được lập khi đã bán hết tài sản hay đối với từng lần bán đấu giá tài sản? Sau mỗi lần bán, tiền thu được sẽ phân chia theo phương án nào? Đó là những vấn đề cần làm rõ để áp dụng một cách hiệu quả trong thực tế.

5. Việc thực thi thời hiệu trong Luật Phá sản năm 2014 của các chủ nợ, người mắc nợ và các bên liên quan có yếu tố nước ngoài

Theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, thì trong một số trường hợp cụ thể, Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phải gửi tài liệu cho cho các chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan có yếu tố nước ngoài và ngược lại.

Điều 4 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự (Nghị định số 111/2011/NĐ-CP) quy định: Để được công nhận và sử dụng ở nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu của Việt Nam phải được chứng nhận lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này; để được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, các giấy tờ, tài liệu của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này.

Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP, thì giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; giấy tờ, tài liệu được chuyển giao trực tiếp hoặc qua đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam; giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài.

Đối chiếu với các quy định nêu trên, các văn bản của Tòa án, công ty quản quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản gửi ra nước ngoài và ngược lại, phải được hợp pháp hóa lãnh sự (đối với trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi về Việt Nam) và chứng nhận lãnh sự (đối với trường hợp Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản gửi ra nước ngoài). Trừ một số trường hợp được miễn theo quy định.

Hiện nay, Việt Nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự song phương với 18 quốc gia trên thế giới. Theo đó, việc gửi văn bản cho các chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan thuộc 18 quốc gia này và ngược lại, thì sẽ được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự. Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện hoạt động của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, có những trường hợp chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan không thuộc 18 quốc gia có hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, thì sẽ phải thực hiện thủ tục chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự đối với các văn bản gửi đi. Việc thực hiện các thủ tục này mất khá nhiều thời gian, từ đó ảnh hưởng đến các vấn đề liên quan đến các thời hiệu trong việc thực hiện thủ tục phá sản. Mặt khác, có trường hợp cá nhân, tổ chức tại nước ngoài không thực hiện thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự mà đã gửi văn bản về Việt Nam, khi đó những văn bản này không sử dụng được Việt Nam, nếu Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản có công văn yêu cầu bổ sung việc hợp pháp hóa lãnh sự thì sẽ mất thêm thời gian vận chuyển, làm thủ tục.

Tất cả những vấn đề trên làm cho việc thực thi các thời hiệu trong Luật Phá sản là vô cùng khó khăn và nhiều trường hợp đối với các quốc gia có vị trí địa lý cách xa Việt Nam, thì việc thực thi các thời hiệu theo Luật Phá sản là không thể.

6. Về vấn đề cung cấp tài liệu, chứng cứ của người tham gia thủ tục phá sản và của cá nhân, tổ chức liên quan

Trên thực tế hoạt động của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, có những tổ chức, cá nhân sau nhiều lần yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc không cung cấp đầy đủ tài liệu chứng cứ, làm các công việc phải thực hiện theo Luật Phá sản gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù, Luật Phá sản đã quy định rõ về trách nhiệm phải cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan nhưng những người có tài liệu chứng cứ không giao nộp thì xử lý thế nào pháp luật chưa có quy định cụ thể.

ThS. Quản Văn Minh

Công ty Quản lý & Thanh lý tài sản số 5 - Quốc gia

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Nhiều quy định "mở" để trao quyền chủ động cho chính quyền địa phương thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn

Đây là chia sẻ của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Hải Ninh khi trao đổi với chúng tôi về 28 nghị định của Chính phủ về phân quyền, phân cấp; phân định thẩm quyền giữa Chính phủ và chính quyền địa phương 02 cấp.
Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm