Thứ hai 17/11/2025 22:43
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn và vướng mắc của Quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề

Theo quy định tại khoản 7, Điều 4 Luật Phá sản năm 2014 thì “Quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản”. Để đảm bảo Quản tài viên thực hiện tốt chức năng trên, Luật đã có nhiều quy định về điều kiện hành nghề, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý của Quản tài viên.

Theo đó, đội ngũ này có nhiệm vụ xác minh, thu thập, quản lý tài liệu, chứng cứ; lập bảng kê tài sản, danh sách chủ nợ; ngăn chặn việc bán, chuyển giao tài sản mà không được phép của thẩm phán... Quản tài viên bắt đầu tham gia vụ việc khi được thẩm phán chỉ định và kết thúc khi chấp hành viên thi hành xong quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quy định về quản tài viên trong Luật Phá sản năm 2014 được kỳ vọng sẽ giúp quá trình thanh lý, xử lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản nhanh hơn. Vậy nhưng, trên thực tế, quá trình thực thi chức trách của quản tài viên đang gặp nhiều khó khăn. Bài viết dưới đây đã nêu ra thực tiễn và vướng mắc của quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề qua đó đóng góp những ý kiến, phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản tài viên đối với chức năng, quyền và nghĩa vụ, cũng như trách nhiệm pháp lý nhằm hỗ trợ và tạo điều kiện tốt hơn cho quản tài viên trong quá trình hoạt động hành nghề.

Theo quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Phá sản năm 2014, thì quản tài viên là cá nhân hành nghề quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán trong quá trình giải quyết phá sản. Để bảo đảm quản tài viên thực hiện tốt chức năng trên, pháp luật quy định về điều kiện hành nghề, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của quản tài viên. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động hành nghề của quản tài viên trên thực tế còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần có cơ chế cụ thể để hoạt động đạt hiệu quả.

1. Giai đoạn tiếp nhận vụ việc phá sản

Theo quy định tại Điều 45 Luật Phá sản năm 2014, thì trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá sản, thẩm phán có trách nhiệm chỉ định quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Trong văn bản chỉ định quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải có nội dung tạm ứng chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Về vấn đề này có một số khó khăn, vướng mắc sau:

1.1. Việc bán tài sản để bảo đảm chi phí phá sản

Theo khoản 3 Điều 23 Luật Phá sản năm 2014, thì: “Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản. Việc định giá, định giá lại và bán tài sản được thực hiện theo quy định tại các điều 122, 123 và 124 của Luật này”.

Về vấn đề này cần làm rõ, Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản kể từ thời điểm nào? Đồng thời, cần có văn bản hướng dẫn cách thức lựa chọn tài sản để bán, phương thức bán tài sản, chi phí định giá tài sản, cách thức quản lý tiền thu được từ việc bán tài sản trong trường hợp này.

1.2. Về quản lý tiền tạm ứng chi phí phá sản

Trong một số trường hợp, người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải nộp tiền tạm ứng chi phí phá sản hoặc Tòa án nhân dân giao cho quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản bán một số tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán để bảo đảm chi phí phá sản. Tuy nhiên, hiện chưa có quy định hướng dẫn về việc quản lý số tiền tạm ứng chi phí phá sản này. Theo pháp luật hiện hành, thì Tòa án nhân dân sẽ mở tài khoản tại ngân hàng để nhận tiền tạm ứng chi phí. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể Tòa án sẽ phải mở tài khoản riêng cho từng vụ việc phá sản hay mở tài khoản chung cho tất cả các vụ việc phá sản?

1.3. Về chỉ định quản tài viên

Chưa quy định rõ số lượng quản tài viên được chỉ định cho mỗi vụ việc. Vì vậy, cần làm rõ, trong trường hợp thẩm phán chỉ định quản tài viên thì số lượng quản tài viên được chỉ định là bao nhiêu? Trong trường hợp quản tài viên chỉ định doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, thì doanh nghiệp này được cử bao nhiêu quản tài viên để thực hiện vụ việc?

Trong trường hợp thẩm phán chỉ định nhiều hơn một quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản tham gia vụ việc phá sản, thì nhiệm vụ, quyền hạn của các quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản được quy định như thế nào? Các quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phối hợp thực hiện các công việc hay mỗi người được phân công một nhóm công việc cụ thể, riêng biệt và tự mình chịu trách nhiệm đối với việc mình được phân công?

2. Công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản sau khi nhận chỉ định tham gia vụ việc phá sản đến khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản

Sau khi được chỉ định là doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản của vụ việc phá sản, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phải thực hiện một số công việc liên quan đến các biện pháp bảo toàn tài sản, hội nghị chủ nợ… cho đến khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản. Về các công việc này, có một số vướng mắc như:

- Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 Luật Phá sản năm 2014, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán phải tiến hành kiểm kê tài sản và xác định giá trị tài sản đó; trong trường hợp cần thiết thì phải có văn bản đề nghị thẩm phán gia hạn, nhưng không quá hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày. Việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã phải được thực hiện theo quy định của pháp luật. Như vậy, tổng thời gian cho việc kiểm kê và xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp tối đa không quá 90 ngày. Với thời gian ngắn như trên, thì việc xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với doanh nghiệp có tài sản ở nhiều quốc gia khác nhau.

Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ tổ chức kiểm kê, xác định lại tài sản theo quyết định của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định thời hạn cụ thể thực hiện việc kiểm kê, xác định lại tài sản của doanh nghiệp, dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức hội nghị chủ nợ vì hội nghị chủ nợ được triệu tập trong vòng 20 ngày kể từ ngày kết thúc việc kiểm kê tài sản (theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật Phá sản năm 2014). Như vậy, nếu việc kiểm kê, xác định lại giá trị tài sản này bị kéo dài nhiều ngày, nhiều tháng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức hội nghị chủ nợ.

- Trường hợp những chủ nợ tại nước ngoài của doanh nghiệp vì lý do địa lý xa xôi, khó khăn để tiếp cận thông tin và một số lý do khác không do lỗi của chủ nợ, dẫn đến việc chủ nợ không được biết về việc phá sản của doanh nghiệp để gửi giấy đòi nợ, thì pháp luật hiện tại chưa có quy định các biện pháp để bảo vệ quyền lợi cho những chủ nợ này.

- Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm xem xét giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, nếu phát hiện giao dịch quy định tại khoản 1 (các giao dịch trong vòng 06 tháng trước ngày quyết định mở thủ tục phá sản) và khoản 2 (các giao dịch trong vòng 18 tháng trước ngày quyết định mở thủ tục phá sản) Điều 59 Luật Phá sản, thì đề nghị Tòa án nhân dân xem xét tuyên bố giao dịch vô hiệu.

Đối với những doanh nghiệp mất khả năng thanh toán có quy mô lớn, có giao dịch ở nhiều quốc gia, thì việc xem xét các giao dịch trong vòng 18 tháng là một khối lượng công việc vô cùng lớn, quản tài viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện công việc này. Mặt khác, đối với những giao dịch có dấu hiệu vi phạm quy định tại Điều 59 Luật Phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ yêu cầu Tòa án nhân dân xem xét giao dịch vô hiệu. Một vụ án mà Tòa án nhân dân tuyên một giao dịch vô hiệu có thể mất nhiều thời gian, điều này ảnh hướng đến thời hiệu thực hiện các công việc khác được quy định tại Luật Phá sản.

- Theo quy định là ngay sau khi mở thủ tục phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất thẩm phán về việc xử lý khoản nợ có bảo đảm đã được tạm đình chỉ theo quy định (Điều 53 Luật Phá sản năm 2014). Vấn đề này cần phải quy định rõ thời hạn đề xuất và xử lý khoản nợ có bảo đảm một cách cụ thể, vì có những tài sản sẽ bị giảm giá trị, tiêu hao theo thời gian ảnh hưởng đến giá trị tài sản của doanh nghiệp.

- Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp, hợp tác xã phải báo cáo quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trước khi thực hiện một số hoạt động. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, hợp tác xã, thì quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm trả lời cho doanh nghiệp, hợp tác xã việc được thực hiện hoặc không được thực hiện các hoạt động này và phải chịu trách nhiệm về việc trả lời của mình. Quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải báo cáo thẩm phán về nội dung trả lời của mình (Điều 49 Luật phá sản năm 2014).

Quản tài viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện việc xem xét các hoạt động và trả lời doanh nghiệp chỉ trong ba ngày làm việc kể từ ngày nhận báo cáo của doanh nghiệp, vì trên thực tế có rất nhiều hoạt động phức tạp, cần ý kiến của chuyên gia trước khi đưa ra quyết định, do đó ba ngày là một thời hạn quá ngắn để quản tài viên đưa ra một quyết định chính xác cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Cùng với đó, trách nhiệm của quản tài viên trong trường hợp này cần được xem xét lại là phối hợp với thẩm phán để việc trả lời về một số hoạt động của doanh nghiệp phải báo cáo được chính xác, hợp lý.

Ngoài ra, trong quá trình hoạt động, chúng tôi gặp những vấn đề liên quan đến việc làm thế nào để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp hợp đồng thuê dịch vụ liên quan đến di dời, vận chuyển tài sản, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác không thuộc những hoạt động bị cấm của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và không thuộc những hoạt động phải báo cáo xin ý kiến quản tài viên, trong khi những hợp đồng này có giá trị không nhỏ?

3. Công việc của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản sau khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản đến khi định giá, bán tài sản

Sau khi Tòa ra tuyên bố doanh nghiệp phá sản, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản cần thực hiện việc định giá tài sản và bán đấu giá tài sản. Về vấn đề này có một số vướng mắc như sau:

- Về việc định giá tài sản: Pháp luật hiện hành chưa có quy định về định giá lại tài sản khi tài sản bị hao mòn, giảm giá trị do tổ chức đấu giá nhiều lần nhưng chưa có người mua.

- Về việc bán đấu giá tài sản: Pháp luật hiện hành chưa quy định về việc tổ chức bán đấu giá không thành thì có tổ chức đấu giá lại đối với tài sản đó hay không? Tổ chức đấu giá lại bao nhiêu lần? Nếu đã quá nhiều lần tổ chức mà không bán được tài sản thì xử lý như thế nào? Ngoài ra, cần bổ sung quy định về giảm giá tài sản nếu tài sản đã tổ chức đấu giá nhưng chưa có người mua.

- Về việc định giá và bán đấu giá tài sản ở nước ngoài: Luật Phá sản năm 2014 chưa có quy định về việc định giá và bán đấu giá tài sản đang ở nước ngoài của doanh nghiệp. Điều này gây ra nhiều bất cập, vì thời hạn định giá tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 122 Luật Phá sản năm 2014 là: “Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định tuyên bố phá sản, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản phải tổ chức định giá tài sản theo quy định của pháp luật” và thời hạn đấu giá tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 124 Luật Phá sản năm 2014: “Việc bán đấu giá đối với động sản phải được thực hiện trong thời hạn là 30 ngày, đối với bất động sản là 45 ngày kể từ ngày ký hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản”. Những thời hạn này chỉ hợp lý khi áp dụng đối với những tài sản đang ở Việt Nam, đối với những tài sản ở nước ngoài thì không còn hợp lý. Do vậy, cần có quy định về định giá và bán đấu giá tài sản đối với những tài sản của doanh nghiệp đang ở nước ngoài.

4. Về lệ phí phá sản và chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản

- Chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản được quy định cụ thể tại Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản về quản tài viên và hành nghề quản lý, thanh lý tài sản. Tuy nhiên, Điều 21 Nghị định 22/2015/NĐ-CP chưa có quy định cụ thể về mức thù lao của doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản đối với trường hợp doanh nghiệp phá sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản sau khi có nghị quyết của hội nghị chủ nợ đề nghị tuyên bố phá sản (Điều 107 Luật Phá sản năm 2014). Vì thế, việc tính chi phí quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ khó khăn trong thực tế áp dụng.

- Về việc phân chia tài sản sau khi bán đấu giá tài sản: Theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 120 Luật Phá sản năm 2014, thì sau khi nhận được báo cáo của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản về kết quả thanh lý tài sản, chấp hành viên thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Như vậy, việc phân chia tài sản sẽ được thực hiện sau khi có báo cáo về việc thanh lý tài sản. Trên thực tế, trong lần bán đấu giá tài sản thanh lý đầu tiên của doanh nghiệp phá sản, các tài sản bị thanh lý có thể không được bán hết, vì một số tài sản không tìm được người mua, như vậy thì báo cáo về kết quả thanh lý tài sản được lập khi đã bán hết tài sản hay đối với từng lần bán đấu giá tài sản? Sau mỗi lần bán, tiền thu được sẽ phân chia theo phương án nào? Đó là những vấn đề cần làm rõ để áp dụng một cách hiệu quả trong thực tế.

5. Việc thực thi thời hiệu trong Luật Phá sản năm 2014 của các chủ nợ, người mắc nợ và các bên liên quan có yếu tố nước ngoài

Theo quy định của Luật Phá sản năm 2014, thì trong một số trường hợp cụ thể, Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản phải gửi tài liệu cho cho các chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan có yếu tố nước ngoài và ngược lại.

Điều 4 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP ngày 05/12/2011 của Chính phủ về chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự (Nghị định số 111/2011/NĐ-CP) quy định: Để được công nhận và sử dụng ở nước ngoài, các giấy tờ, tài liệu của Việt Nam phải được chứng nhận lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này; để được công nhận và sử dụng tại Việt Nam, các giấy tờ, tài liệu của nước ngoài phải được hợp pháp hóa lãnh sự, trừ trường hợp quy định tại Điều 9 Nghị định này.

Theo quy định tại Điều 9 Nghị định số 111/2011/NĐ-CP, thì giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo điều ước quốc tế mà Việt Nam và nước ngoài liên quan đều là thành viên, hoặc theo nguyên tắc có đi có lại; giấy tờ, tài liệu được chuyển giao trực tiếp hoặc qua đường ngoại giao giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài; giấy tờ, tài liệu được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự theo quy định của pháp luật Việt Nam; giấy tờ, tài liệu mà cơ quan tiếp nhận của Việt Nam hoặc của nước ngoài không yêu cầu phải hợp pháp hóa lãnh sự, chứng nhận lãnh sự phù hợp với quy định pháp luật tương ứng của Việt Nam hoặc của nước ngoài.

Đối chiếu với các quy định nêu trên, các văn bản của Tòa án, công ty quản quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản gửi ra nước ngoài và ngược lại, phải được hợp pháp hóa lãnh sự (đối với trường hợp tổ chức, cá nhân nước ngoài gửi về Việt Nam) và chứng nhận lãnh sự (đối với trường hợp Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản gửi ra nước ngoài). Trừ một số trường hợp được miễn theo quy định.

Hiện nay, Việt Nam đã ký hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự song phương với 18 quốc gia trên thế giới. Theo đó, việc gửi văn bản cho các chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan thuộc 18 quốc gia này và ngược lại, thì sẽ được miễn chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự. Tuy nhiên, trên thực tế thực hiện hoạt động của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, có những trường hợp chủ nợ, người mắc nợ và người liên quan không thuộc 18 quốc gia có hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, thì sẽ phải thực hiện thủ tục chứng nhận lãnh sự, hợp pháp hóa lãnh sự đối với các văn bản gửi đi. Việc thực hiện các thủ tục này mất khá nhiều thời gian, từ đó ảnh hưởng đến các vấn đề liên quan đến các thời hiệu trong việc thực hiện thủ tục phá sản. Mặt khác, có trường hợp cá nhân, tổ chức tại nước ngoài không thực hiện thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự mà đã gửi văn bản về Việt Nam, khi đó những văn bản này không sử dụng được Việt Nam, nếu Tòa án, quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản có công văn yêu cầu bổ sung việc hợp pháp hóa lãnh sự thì sẽ mất thêm thời gian vận chuyển, làm thủ tục.

Tất cả những vấn đề trên làm cho việc thực thi các thời hiệu trong Luật Phá sản là vô cùng khó khăn và nhiều trường hợp đối với các quốc gia có vị trí địa lý cách xa Việt Nam, thì việc thực thi các thời hiệu theo Luật Phá sản là không thể.

6. Về vấn đề cung cấp tài liệu, chứng cứ của người tham gia thủ tục phá sản và của cá nhân, tổ chức liên quan

Trên thực tế hoạt động của quản tài viên, doanh nghiệp quản lý và thanh lý tài sản, có những tổ chức, cá nhân sau nhiều lần yêu cầu nhưng không cung cấp hoặc không cung cấp đầy đủ tài liệu chứng cứ, làm các công việc phải thực hiện theo Luật Phá sản gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù, Luật Phá sản đã quy định rõ về trách nhiệm phải cung cấp tài liệu, chứng cứ có liên quan nhưng những người có tài liệu chứng cứ không giao nộp thì xử lý thế nào pháp luật chưa có quy định cụ thể.

ThS. Quản Văn Minh

Công ty Quản lý & Thanh lý tài sản số 5 - Quốc gia

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Trợ giúp pháp lý - Điểm tựa pháp lý cho tuổi vị thành niên lầm lỡ

Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn các em đang hình thành nhân cách, dễ bồng bột, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc và nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nếu không được định hướng, các em rất dễ sa vào những hành vi vi phạm pháp luật đáng tiếc. Chỉ một phút nóng giận, một quyết định bồng bột… cũng đủ khiến tuổi trẻ phải trả giá bằng cả những tháng ngày sau song sắt. Thế nhưng, trong câu chuyện buồn ấy, vẫn có một điểm sáng nhân văn - đó là bàn tay nâng đỡ của trợ giúp pháp lý miễn phí, để một thiếu niên lầm lỡ có cơ hội sửa sai và làm lại từ đầu.
Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Lịch trình pháp lý cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2026 - 2031

Bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) và đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND) là sự kiện chính trị trọng đại, được tiến hành theo trình tự chặt chẽ, bảo đảm dân chủ, bình đẳng và đúng pháp luật. Trong tiến trình ấy, Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND (Luật Bầu cử) quy định cụ thể các mốc thời gian thực hiện. Đây vừa là cơ sở bảo đảm tính logic, vừa là căn cứ cho sự minh bạch và thống nhất trong toàn bộ quy trình. Lịch trình pháp lý được xác định trên cơ sở ngày bầu cử đã được ấn định cho mỗi kỳ bầu cử.
Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Dấu mốc quan trọng tạo lập khung pháp lý cho thị trường tài sản mã hóa

Ngày 09/9/2025, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 05/2025/NQ-CP về việc triển khai thí điểm thị trường tài sản mã hóa tại Việt Nam. Nghị quyết được ban hành đánh dấu bước đi quan trọng tạo khung khổ pháp lý để quản lý, kiểm soát chặt chẽ, minh bạch hóa thị trường tài sản mã hóa, hướng tới định hình thị trường tài sản số.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Cần kịp thời hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc triển khai Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 22/01/2019 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và trách nhiệm quản lý của Nhà nước đối với công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế nhất định, đòi hỏi phải kịp thời hoàn thiện chính sách pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

14 trường hợp được miễn học phí từ năm học 2025-2026

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý trong chính sách miễn, giảm, hỗ trợ học phí, hỗ trợ chi phí học tập của Chính phủ.
HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở HÀ TĨNH THÁCH THỨC VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TỪ THỰC TIỄN

Trợ giúp pháp lý là chính sách nhân văn sâu sắc, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là những người yếu thế trong xã hội, người có công với cách mạng. Đồng thời, đây cũng là công cụ quan trọng nhằm bảo đảm công lý, để mọi người dân đều được tiếp cận pháp luật bình đẳng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Giải pháp khắc phục vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp

Ngày 15/8/2025, Bộ Tư pháp đã có Văn bản số 5006/BTP-HCTP về giải pháp khắc phục các khó khăn, vướng mắc trong sử dụng Phần mềm đăng ký, quản lý hộ tịch phục vụ vận hành chính quyền địa phương 02 cấp gửi Văn phòng Trung ương Đảng, trong đó, xác định rõ nguyên nhân và những giải pháp để kịp thời khắc phục các khó khăn, vướng mắc.
Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Thẩm quyền quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, biện pháp đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Theo Pháp lệnh số 08/2025/UBTVQH15 được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 27/6/2025, kể từ ngày 01/7/2025, Tòa án nhân dân khu vực có thẩm quyền theo lãnh thổ tiếp nhận nhiệm vụ xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân, đưa người nghiện ma túy từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng mà Tòa án nhân dân cấp huyện đang giải quyết.
Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai quyết tâm bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập

Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3, tỉnh Lào Cai được thành lập ngày 01/7/2025 trên cơ sở hợp nhất Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 huyện Văn Bàn (cũ) và Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 4 huyện Bảo Yên (cũ). Từ khi được thành lập, Chi nhánh Trợ giúp pháp lý số 3 thích ứng mô hình chính quyền địa phương hai cấp, bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý cho người dân sau sáp nhập.
Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Xác định đối tượng trợ giúp pháp lý là người dân tộc thiểu số vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn khi triển khai chính quyền địa phương hai cấp

Sau khi thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy chính quyền địa phương hai cấp, việc xác định đối tượng trợ giúp pháp lý người dân tộc thiểu số vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn phát sinh một số bất cập cần có giải pháp tháo gỡ.

Theo dõi chúng tôi trên:

he-thong-benh-vien-quoc-te-vinmec
nha-hang-thai-village
delta-group
khach-san-ladalat
trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
truong-dai-hoc-y-duoc-dai-hoc-quoc-gia-ha-noi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm
cong-ty-co-phan-loc-hoa-dau-binh-son
sofitel-legend-metropole-ha-noi