Chủ nhật 14/12/2025 04:38
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Thực tiễn xét xử về kinh doanh, thương mại ở Việt Nam và định hướng hoàn thiện pháp luật

Bài viết tập trung phân tích một số bất cập trong thực tiễn xét xử về kinh doanh, thương mại ở Việt Nam, từ đó, đưa ra một số định hướng hoàn thiện pháp luật liên quan đến lĩnh vực này.

1. Một số bất cập trong thực tiễn xét xử về kinh doanh, thương mại ở Việt Nam

Hiện nay, bên cạnh những kết quả đạt được thì thực tiễn xét xử về kinh doanh, thương mại ở Việt Nam vẫn còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Cụ thể:

Một là, chưa có sự thống nhất trong hướng xử lý giữa các Tòa án trong trường hợp thỏa thuận về mức phạt vi phạm vượt quá 8% nghĩa vụ bị vi phạm. Theo quy định tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005: “Mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thoả thuận trong hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại Điều 266 của Luật này”. Dựa vào quy định trên, có thể hiểu, trường hợp các bên thỏa thuận phạt vi phạm mà vượt quá mức 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm sẽ không được Tòa án chấp nhận. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của các Tòa án lại có các hướng giải quyết khác nhau trong trường hợp này: (i) Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì phần vượt quá không được tính. Điều này có nghĩa, mức phạt sẽ được xác định là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. (ii) Trường hợp các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm lớn hơn 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm thì điều khoản này bị xác định là vô hiệu và không được áp dụng[1].

Đơn cử: Bản án số 17/2017/KDTM-ST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa[2], các bên thỏa thuận trong hợp đồng về mức phạt vi phạm là 8% giá trị hợp đồng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả tiền phạt vi phạm với mức phạt vi phạm là 8% giá trị hợp đồng. Tòa án căn cứ vào Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, ra quyết định là không chấp nhận với yêu cầu phạt của nguyên đơn vì vượt quá quy định của Luật Thương mại năm 2005. Tuy nhiên, điều khoản phạt vi phạm vẫn có hiệu lực và phần vượt quá sẽ không được tính, buộc bị đơn chịu phạt vi phạm với mức phạt sẽ được xác định là 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm. Cũng cùng một vấn đề về thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá quy định Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 nhưng tại Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản[3], các bên thỏa thuận trong hợp đồng về mức tiền phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán 20% giá trị hợp đồng. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc bị đơn trả tiền phạt vi phạm với mức phạt 20% giá trị hợp đồng. Tòa án ra quyết định không chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm của nguyên đơn vì mức phạt vi phạm hợp đồng không được quá 8% giá trị hợp đồng và xác định điều khoản này bị vô hiệu. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án, có thể thấy, hiện nay, hướng giải quyết trong trường hợp các bên thỏa thuận về mức phạt vi phạm vượt quá quy định tại Điều 301 Luật Thương mại năm 2005 còn khác biệt, chưa có sự thống nhất với nhau.

Hai là, quy định về thỏa thuận mức lãi suất phạt của các bên trong hợp đồng trong Luật Thương mại năm 2005 chưa cụ thể. Căn cứ vào Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, sẽ ưu tiên tôn trọng sự thỏa thuận của các bên về mức lãi suất chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác. Qua thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng, trong Bản án số 05/2021/KDTM-PT ngày 22/4/2021 về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa[4], nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Bê tông T (Công ty T) kiện Công ty cổ phần Xây dựng và Đầu tư V (Công ty V) vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Công ty T yêu cầu Công ty V thanh toán số tiền 325.646.300 đồng, trong đó, nợ gốc là 263.021.000 đồng và tiền lãi tính từ thời điểm 01/02/2020 đến ngày xét xử là 29/01/2021, mức lãi suất quá hạn là 0,0188%/tháng, tiền lãi là 62.625.300 đồng. Tòa sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Các đương sự không có kháng cáo, tuy nhiên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Đà Nẵng có quyết định kháng nghị phúc thẩm theo hướng sửa một phần Bản án sơ thẩm đối với phần yêu cầu trả tiền lãi chậm thanh toán. Theo Viện kiểm sát mức lãi suất 0,188%/tháng (22,5%/năm) mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng mua bán đã vượt quá mức lãi suất 20%/năm theo quy định về lãi suất cho vay tại Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Sau đó, Tòa phúc thẩm đã tuyên bố không chấp nhận mức lãi suất 22,5%/năm mà các bên đã thỏa thuận, buộc các bên lùi về mức lãi 20%/năm theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Qua Bản án này, có thể thấy, việc Viện kiểm sát và Tòa phúc thẩm áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất cho vay vào xem xét thỏa thuận của các bên về phạt lãi do vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã gây nhiều băn khoăn, lúng túng cho các bên. Bởi vì, thỏa thuận của các bên về mức lãi suất phạt phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 và đây là hợp đồng mua bán giữa các bên, chứ không phải hợp đồng cho vay. Đồng thời, việc các bên tranh chấp thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại và Luật Thương mại năm 2005 có quy định cụ thể thì không nên xem xét quy định Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 về lãi suất trong hợp đồng cho vay. Bên cạnh đó, pháp luật cũng không có quy định rõ ràng về việc có đương nhiên được áp dụng giới hạn lãi suất trong hợp đồng cho vay để xem xét cho việc thỏa thuận về lãi suất chậm thanh toán trong các hợp đồng thương mại theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005. Hiện nay, có 02 quan điểm trái chiều nhau về việc thỏa thuận mức lãi phạt chậm thanh toán này của các bên trong hợp đồng. Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc các bên thỏa thuận mức lãi phạt chậm thanh toán là phù hợp với quy định của Luật Thương mại năm 2005 và cần được chấp nhận; quan điểm thứ hai lại cho rằng, dù các bên đã thỏa thuận nhưng mức lãi phạt chậm thanh toán cũng không được cao hơn 20%/năm theo quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ba là, chưa quy định rõ ràng, cụ thể về vấn đề cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Theo đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung các năm 2009, 2019 và 2022): “Ngoài khoản bồi thường thiệt hại quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư”. Như vậy, theo quy định này thì khi nguyên đơn khởi kiện, bên cạnh các khoản bồi thường thiệt hại thì nguyên đơn cũng có quyền yêu cầu Tòa án buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của mình phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Tuy nhiên, Luật này lại không có quy định hướng dẫn cụ thể là chi phí như thế nào là chi phí hợp lý, ai là người có nghĩa vụ chứng minh chi phí này, cũng như không giới hạn mức chi phí luật sư này. Do đó, dẫn đến trường hợp, dù Luật có quy định đây là một khoản chi phí nguyên đơn có quyền yêu cầu nhưng trên thực tế xét xử, rất ít trường hợp nguyên đơn được nhận khoản chi phí này. Đây có thể được coi là “lỗ hổng”, có quy định nhưng không thực hiện được, có thể gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người bị xâm hại về quyền sở hữu trí tuệ.

2. Một số định hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại ở Việt Nam

Một là, đề xuất đưa Bản án số 17/2017/KDTM-ST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa phát triển thành án lệ về hướng xử lý cho trường hợp các bên thỏa thuận phạt vi phạm vượt quá 8% phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm - vấn đề mà pháp luật chưa quy định rõ ràng. Theo đó, dù các bên đương sự đã có thỏa thuận với nhau về mức phạt vi phạm vượt quá quy định so với Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, tuy nhiên, Tòa án vẫn chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm của nguyên đơn và buộc bị đơn chịu phạt với mức phạt 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, không tính phần vượt quá. Bởi vì, căn cứ theo Điều 301 Luật Thương mại năm 2005, chỉ quy định các bên được thỏa thuận phạt vi phạm nhưng không được vượt quá mức trần 8% phần nghĩa vụ bị vi phạm mà không quy định hướng giải quyết cho trường hợp nếu các bên thỏa thuận vượt quá mức trần trên sẽ xử lý như thế nào. Điều này tạo nên sự lúng túng cho Tòa án và gây ra tình trạng thiếu sự thống nhất trong quyết định của các Tòa án trong phạm vi lãnh thổ.

Hai là, cần quy định cụ thể về thỏa thuận lãi suất chậm thanh toán theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005. Theo quan điểm của tác giả về vụ án trong Bản án số 05/2021/KDTM-PT ngày 22/4/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, do cả hai bên đã có thỏa thuận khác nên thỏa thuận về mức lãi phạt chậm thanh toán này hoàn toàn phù hợp với quy định của Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 và Tòa án cần chấp nhận nó. Như đã phân tích ở trên, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về lãi suất trong hợp đồng cho vay và pháp luật không quy định đương nhiên được áp dụng trong hợp đồng thương mại. Đồng thời, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 cho phép các bên thỏa thuận mức lãi suất phạt chậm thanh toán, do đó, không nên áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, bởi bản chất của thỏa thuận phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng thương mại là một chế tài để “răn đe” các chủ thể cố tình vi phạm nghĩa vụ, không thuộc phạm vi điều chỉnh về lãi suất cho vay để kiểm soát hoạt động cho vay, thực hiện chính sách về tiền tệ của Nhà nước[5]. Hơn nữa, quy định về lãi suất cho vay trong Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm kiểm soát hoạt động cho vay, với mục đích thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia của Nhà nước, tạo sự ổn định và cân bằng trong quản lý tiền tệ. Bên cạnh đó, hợp đồng thương mại là “sân chơi” của các nhà đầu tư với nhau và cần tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, cũng như bảo đảm đủ tính “răn đe” cho các bên thực hiện đúng theo thỏa thuận hợp đồng. Do đó, không nên điều chỉnh hay giới hạn mức lãi suất phạt chậm thanh toán theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng thương mại bởi lãi suất cho vay và việc thẩm phán vẫn áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 là không hợp lý. Chính vì vậy, tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 cần quy định rõ về việc có được áp dụng Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 vào trong thỏa thuận mức lãi suất phạt chậm thanh toán hay không. Theo quan điểm của tác giả, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 nên quy định theo hướng không áp dụng nhằm bảo đảm đúng bản chất của thỏa thuận trong hợp đồng thương mại.

Ba là, đề xuất đưa Bản án sơ thẩm số 364/2014/KDTM-ST ngày 10/4/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ” phát triển thành án lệ về chi phí hợp lý để thuê luật sư trong vụ án tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ. Quy định tại khoản 3 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định người có quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư. Tuy nhiên, Luật này không quy định rõ về cách xác định như thế nào về chi phí hợp lý thuê luật sư. Qua bản án trên, Tòa án đã phần nào giải quyết được vấn đề xác định chi phí hợp lý để thuê luật sư. Cụ thể, Bản án sơ thẩm số 364/2014/KDTM-ST ngày 10/4/2014 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ giữa nguyên đơn là Công ty cổ phần giám định V với bị đơn là Công ty cổ phần D. Nguyên đơn yêu cầu chi phí luật sư là 50 triệu đồng và đưa ra chứng cứ là hợp đồng dịch vụ pháp lý đã ký với Công ty Luật hợp danh P, đồng thời hóa đơn giá trị gia tăng về toàn bộ số tiền này là chi phí trả thù lao luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Tòa án căn cứ vào hợp đồng thuê luật sư giữa hai bên và Điều 55 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định về thù lao theo giờ làm việc của luật sư, Tòa án xác định đây là chi phí chọn gói để thuê luật sư, trong đó bao gồm cả chi phí không hợp lý (nguyên đơn tự chịu là nộp đơn khởi kiện và thay mặt công ty tham gia tố tụng) và chi phí được Tòa xem xét là chi phí hợp lý (thuê luật sư tư vấn và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn). Tòa án xác định phần chi phí không hợp lý chiếm ½ tổng chi phí. Do đó, chấp nhận một phần yêu cầu bồi thường của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán 50% chi phí hợp lý thuê luật sư, tức 25 triệu đồng.

Với hướng giải quyết này của Tòa án đã đưa ra được cách xác định chi phí nào là hợp lý bằng cách căn cứ vào hợp đồng thỏa thuận thuê luật sư của các bên. Bên cạnh đó, với bản án này, cũng có thể áp dụng tương tự với cách thức xác định chi phí hợp lý thuê luật sư trong trường hợp tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ kiện, nếu Tòa án kết luận là không thực hiện hành vi xâm phạm hoặc trong trường hợp tổ chức, cá nhân bị gây thiệt hại do các cá nhân, tổ chức khác lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Theo đó, bản án này đã phần nào giúp cho các thẩm phán có được hướng giải quyết trong trường hợp xác định chi phí hợp lý thuê luật sư, cũng như bảo đảm được quyền lợi chính đáng của bên bị xâm phạm. Đồng thời, nếu bản án này được trở thành án lệ thì cũng giúp cho các bên khi tham gia quan hệ sở hữu trí tuệ có thể tham khảo để biết cách đưa ra các bằng chứng nhằm thực hiện hiệu quả quyền yêu cầu bồi thường của mình, bảo vệ được quyền lợi của chính mình.

ThS. Trịnh Tường Khiêm

Trường Đại học Hùng Vương TP. Hồ Chí Minh

ThS. Trần Linh Huân

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

[1]. Đinh Văn Cường, Thực trạng pháp luật và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương mại và mối quan hệ giữa hai chế tài, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 03/2020, năm 2020, tr. 51.

[2]. Bản án số 17/2017/KDTM-ST ngày 06/6/2017 của Tòa án nhân dân quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-172017kdtmst-ngay-06062017-ve-tranh-chap-hop-dong-mua-ban-hang-hoa-1666, truy cập ngày 08/9/2023.

[3]. Bản án số 01/2017/KDTM-ST ngày 20/7/2017 của Tòa án nhân dân thị xã Bình Long, tỉnh Bình Phước về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta7231t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 08/9/2023.

[4]. Bản án số 05/2021/KDTM-PT ngày 22/4/2021 của Tòa án nhân dân Thành phố Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, https://congbobanan.toaan.gov.vn/2ta693967t1cvn/chi-tiet-ban-an, truy cập ngày 08/9/2023.

[5]. Văn phòng Luật sư Tô Đình Huy, Tranh chấp tiền lãi trong hợp đồng mua bán hàng hóa, http://www.luatsubaochua.org/tin-tuc/65/Tranh-Chap-Tien-Lai-Trong-Hop-Dong-Mua-Ban-Hang-Hoa.html, truy cập ngày 08/9/2023.

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ và Pháp luật Kỳ 1 (Số 388), tháng 9/2023)

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Một số vướng mắc, bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển

Tóm tắt: Trong kinh tế tri thức, tài sản trí tuệ là yếu tố then chốt góp phần quan trọng nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển tư nhân. Bài viết nghiên cứu một số bất cập về pháp luật sở hữu trí tuệ, từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời, đưa ra giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong việc khai thác hiệu quả giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, góp phần thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số - thách thức và giải pháp

Tóm tắt: Kỷ nguyên số đã và đang tạo nhiều cơ hội để tiếp cận các tác phẩm ngày càng dễ dàng hơn với nhiều phương thức khác nhau. Tuy nhiên, thời đại kỷ nguyên số cũng đặt ra không ít thách thức trong việc bảo hộ quyền tác giả như sự xuất hiện của những loại hình tác phẩm mới, sự ra đời của những tác phẩm do trí tuệ nhân tạo (AI) tạo ra, sự gia tăng nhanh chóng của các hành vi xâm phạm với sự trợ giúp đắc lực của mạng internet cùng các công nghệ mới… Bài viết phân tích những thách thức về bảo hộ quyền tác giả trong kỷ nguyên số, đồng thời đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam về vấn đề này.
Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc và một số kiến nghị hoàn thiện

Tóm tắt: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất, tinh thần và tâm lý của người lao động, khiến cho hiệu quả công việc của họ bị giảm sút và môi trường làm việc trở nên thiếu an toàn. Do vậy, pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc gia đều có quy định để bảo đảm môi trường làm việc lành mạnh cũng như bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Pháp luật Việt Nam cũng đã đặt ra các quy định để ngăn ngừa, hạn chế quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Bài viết tập trung làm rõ những vấn đề pháp lý về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc trên phương diện pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, qua đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này ở Việt Nam.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Hoàn thiện quy định pháp luật về thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp gắn với bảo vệ hoạt động kinh doanh

Tóm tắt: Thi hành án dân sự nhanh, hiệu quả góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng. Để bảo vệ quyền lợi cho doanh nghiệp, thúc đẩy hoạt động kinh doanh lành mạnh, bài viết nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự đối với doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế, bất cập có thể cản trở hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự theo hướng vừa bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thi hành án, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong bối cảnh hiện nay.
Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Định giá tài sản kê biên trong thi hành án dân sự - Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Tóm tắt: Định giá tài sản kê biên có vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Vì vậy, để góp phần nâng cao tính minh bạch, hiệu quả và công bằng trong hoạt động thi hành án dân sự, bài viết phân tích các quy định hiện hành của Luật Thi hành án dân sự về định giá tài sản kê biên, chỉ ra những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn áp dụng, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tổ chức, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh và kinh nghiệm cho Việt Nam

Tóm tắt: Vương quốc Anh là quốc gia theo hệ thống Common Law, có tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự khá khác biệt so với các nước theo truyền thống Civil Law, trong đó đề cao tính xã hội hóa trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong quá trình phát triển, hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh có một số cải cách, giúp cho hoạt động này ngày càng hiệu quả, phù hợp với thể chế chính trị, điều kiện kinh tế - xã hội. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ một số cải cách trong hoạt động thi hành án dân sự tại Vương quốc Anh, từ đó, đưa ra một số đề xuất, kiến nghị để nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam là cần thiết.
Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Hoàn thiện pháp luật về thông báo thi hành án từ góc độ quyền và nghĩa vụ của đương sự

Tóm tắt: Thông báo thi hành án là thủ tục không thể thiếu trong từng giai đoạn của quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành về thông báo thi hành án còn tồn tại một số bất cập, hạn chế như chưa tương xứng giữa quyền với nghĩa vụ của đương sự, giữa trách nhiệm với quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên và chủ yếu được thực hiện theo hình thức thông báo trực tiếp… Bài viết phân tích pháp luật thực định và thực tiễn thi hành, từ đó, đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến thông báo thi hành án để phù hợp thực tiễn, đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật về nghĩa vụ và quyền giáo dục của cha mẹ đối với con, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy quyền được giáo dục của con trong gia đình được thực hiện hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển của trẻ em và xã hội trong bối cảnh hiện nay.
Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Bàn về một số học thuyết pháp lý và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết tập trung nghiên cứu một số học thuyết và phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật, chỉ ra những bất cập tồn tại trong quy định pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng ở Việt Nam chưa phù hợp với các học thuyết này. Từ đó, nghiên cứu đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong thời gian tới.
Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Cải cách thủ tục hành chính thúc đẩy đổi mới sáng tạo

Tóm tắt: Cải cách thủ tục hành chính là yếu tố quan trọng, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính, thúc đẩy cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, đặc biệt là tạo động lực cho đổi mới sáng tạo. Nghiên cứu này phân tích sự cần thiết của cải cách thủ tục hành chính và thực trạng cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam trong việc khơi thông động lực đổi mới sáng tạo, từ đó, đề xuất giải pháp cải cách.
Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tiếp cận góc độ kinh tế học pháp luật trong hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển tư tưởng về mối quan hệ giữa luật pháp và kinh tế học, tập trung vào trường phái kinh tế học pháp luật với phương pháp phân tích chi phí - lợi ích làm nổi bật vai trò quan trọng của việc cân nhắc các tác động hành vi cùng hiệu quả phân bổ nguồn lực trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Trên cơ sở đó, đề xuất áp dụng phương pháp kinh tế học pháp luật vào quy trình lập pháp tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, sự công bằng xã hội và góp phần thúc đẩy cải cách pháp luật bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chuyển đổi số.
Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt: Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp phổ biến nhất trong quan hệ lao động và ngày càng diễn biến phức tạp, cùng với đó, nhu cầu về cơ chế giải quyết tranh chấp hiệu quả, linh hoạt và bảo đảm quyền lợi cho các bên cũng ngày càng tăng trong lĩnh vực lao động. Trọng tài lao động với tính chất độc lập và được thiết kế theo cơ chế ba bên, có tiềm năng trở thành phương thức giải quyết tranh chấp lao động cá nhân hiệu quả. Bài viết phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về thẩm quyền của trọng tài lao động đối với tranh chấp lao động cá nhân, từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Hoàn thiện khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số tại Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết nghiên cứu, phân tích các dấu hiệu nhận diện đặc trưng của tài sản số, những khó khăn, bất cập khi thiếu khung pháp lý về tài sản số và quyền sở hữu tài sản số, kinh nghiệm của Hoa Kỳ và giá trị tham khảo cho Việt Nam. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng khung pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực công nghệ, bảo vệ quyền lợi của người sở hữu tài sản số, tận dụng tối đa tiềm năng từ tài sản số và tiếp tục vững bước trên con đường phát triển kinh tế số.
Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Trách nhiệm pháp lý của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

Tóm tắt: Bài viết phân tích, làm rõ khái niệm người có ảnh hưởng, tình hình thực tiễn về mô hình quảng cáo thông qua người có ảnh hưởng và các hành vi quảng cáo gây ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu phân tích một số hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật và đề xuất, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của người có ảnh hưởng trong hoạt động quảng cáo nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò và trách nhiệm của thanh niên trong việc hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự trong kỷ nguyên mới

Tóm tắt: Trong bối cảnh đất nước bước vào kỷ nguyên mới với những yêu cầu đặt ra về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng như yêu cầu tháo gỡ những “điểm nghẽn”, “nút thắt” có nguyên nhân từ quy định của pháp luật hiện nay, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng là cấp thiết, đặc biệt, dự án Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi) dự kiến được Quốc hội khóa XV thông qua tại kỳ họp thứ 10 vào tháng 10/2025. Trước bối cảnh đó, với vai trò là trụ cột, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới, đồng thời là đội ngũ tiên phong tham gia các lĩnh vực mới, thanh niên ngành thi hành án dân sự cần tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm trong việc tham gia vào công tác hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự.

Theo dõi chúng tôi trên: