Chủ nhật 15/06/2025 21:32
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Vấn đề cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Khách thể loại của các tội xâm phạm TTQLHC là những quan hệ xã hội tồn tại trong các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.

Cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (TTQLHC) là những hành vi nguy hiểm cho xã hội có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC được Bộ luật Hình sự quy định. Như vậy, trên cơ sở pháp lý quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 1999, chúng tôi cho rằng chỉ hành vi có đầy đủ các yếu tố cấu thành một tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC được quy định tại Chương XX “Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính” Bộ luật hình sự năm 1999 thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm này. Phân tích cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm TTQLHC thực chất là phân tích quy định của pháp luật hình sự về các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, những dấu hiệu có ý nghĩa định tội đối với các tội xâm phạm TTQLHC.

1. Khách thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Khách thể loại của các tội xâm phạm TTQLHC là những quan hệ xã hội tồn tại trong các lĩnh vực của quản lý hành chính nhà nước, xâm phạm đến hoạt động bình thường, đúng đắn của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, làm giảm hiệu quả và hiệu lực quản lý hành chính nhà nước.

Trong khi đó, khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm TTQLHC là quan hệ xã hội cụ thể bị tội phạm cụ thể trực tiếp gây thiệt hại hoặc đe dọa gây hại. Bất cứ tội phạm cụ thể nào xâm phạm TTQLHC cũng có khách thể trực tiếp. Nghiên cứu các tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, chúng tôi thấy khách thể trực tiếp của loại tội phạm này là quan hệ xã hội về: Hoạt động bình thường của người thi hành công vụ, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các quy định của Nhà nước về thực hiện các quyền; quản lý việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân; chế độ bảo vệ bí mật nhà nước; TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ; trật tự quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng các giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan tổ chức; trật tự quản lý nhà nước về chấp hành các quyết định hành chính; TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà ở; TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình hoặc các ấn phẩm khác; TTQLHC trong lĩnh vực bảo vệ quản lý và sử dụng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh; chế độ quản lý nhà nước về khu vực biên giới quốc gia; TTQLHC trong lĩnh vực xuất nhập cảnh; TTQLHC trong quan hệ đối nội, đối ngoại và khách thể đặc biệt là quốc thể.

Tuy nhiên, mỗi quan hệ xã hội là khách thể trực tiếp của một nhóm tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC như: Quan hệ xã hội trong TTQLHC của việc thực hiện nghĩa vụ quân sự là khách thể trực tiếp của tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, tội làm trái các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự; TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ là khách thể trực tiếp của tội giả mạo chức vụ, cấp bậc... Do đó, việc xác định khách thể trực tiếp của các tội xâm phạm TTQLHC là căn cứ để chia những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến lĩnh vực này thành những nhóm tội phạm khác nhau. Căn cứ vào khách thể trực tiếp, có thể chia các tội xâm phạm TTQLHC thành những nhóm sau đây:

- Các tội xâm phạm hoạt động bình thường của người thi hành công vụ, của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội;

- Các tội xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân;

- Các tội xâm phạm TTQLHC việc thực hiện nghĩa vụ quân sự và việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân;

- Các tội xâm phạm chế độ bảo vệ bí mật nhà nước;

- Các tội xâm phạm TTQLHC trong lĩnh vực quản lý chức vụ, cấp bậc và uy tín của cán bộ;

- Các tội xâm phạm trật tự quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý, sử dụng các giấy chứng nhận, tài liệu của cơ quan, tổ chức;

- Các tội xâm phạm về trật tự quản lý nhà nước về chấp hành các quyết định hành chính;

- Các tội xâm phạm về TTQLHC nhà nước trong lĩnh vực quản lý nhà ở; lĩnh vực xuất bản và phát hành;

- Các tội xâm phạm về TTQLHC trong lĩnh vực bảo vệ quản lý và sử dụng các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh;

- Các tội xâm phạm TTQLHC về khu biên giới, trong lĩnh vực xuất - nhập cảnh, quan hệ đối nội, đối ngoại;

- Các tội xâm phạm đến TTQLHC về Quốc kỳ, Quốc huy.

Bên cạnh đó, đối tượng tác động của các tội xâm phạm TTQLHC là bộ phận khách thể của nhóm tội phạm này, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ[1]. Vì thế, đối tượng của tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC có thể là con người như tội chống người thi hành công vụ; là chính sách về nghĩa vụ quân sự như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự, tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ, tội làm trái các quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự, tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự; là bí mật nhà nước bao gồm: Những tin tức về vụ, việc, tài liệu, địa điểm, vật, lời nói có nội dung quan trọng thuộc các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, khoa học, công nghệ hoặc các lĩnh vực khác mà Nhà nước chưa công bố hoặc không công bố như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước, tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước và tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật của nhà nước; là chức vụ, cấp bậc mà Nhà nước quy định cho cán bộ, nhân viên trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị lực lượng vũ trang như tội giả mạo chức vụ, cấp bậc; hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức như tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức, tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức...

2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Mặt khách quan của các tội xâm phạm TTQLHC là những biểu hiện của các tội phạm này diễn ra bên ngoài, là những yếu tố thuộc về thế giới khách quan, trong đó, dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu bắt buộc trong các cấu thành tội phạm.

Trước hết, hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi xâm phạm tới các lĩnh vực TTQLHC. Hành vi phạm tội xâm phạm TTQLHC về cơ bản được thể hiện dưới dạng hành động, tức là bằng việc thực hiện hành vi cụ thể, người phạm tội đã tích cực thực hiện một việc làm trái pháp luật nào đó như chống người thi hành công vụ, làm lộ bí mật nhà nước... Ngoài ra, hành vi phạm tội xâm phạm TTQLHC còn có thể được thể hiện dưới dạng không hành động, tức là không làm một việc mà pháp luật bắt phải làm như không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, không chấp hành các quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh. Vì vậy, việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội tới mức bị coi là tội phạm khi xâm phạm TTQLHC phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nếu trước đây, hành vi sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì nay Điều 266 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định hành vi trên đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm, mới là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là hành vi phạm tội. Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm, như việc không chấp hành lệnh gọi quân nhân nhập ngũ trước đây không bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm.

Trong từng tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC, biểu hiện của hành vi khách quan cũng khác nhau. Dấu hiệu đã bị xử lý hành chính về hành vi đó mà còn vi phạm là dấu hiệu bắt buộc của một số cấu thành tội phạm được thể hiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 như: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận các tài liệu của cơ quan, tổ chức (Điều 266); tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 270); tội vi phạm quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 272); tội vi phạm quy chế về biên giới (Điều 273)... Dấu hiệu “đã bị kết án về tội này chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là dấu hiệu cấu thành của một số tội phạm như: Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở (Điều 270); tội vi phạm quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 272)...

Ngoài ra, đa số các cấu thành tội phạm trong các tội xâm phạm TTQLHC có cấu thành hình thức, nghĩa là dấu hiệu hậu quả không được phản ánh là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội phạm. Dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng là dấu hiệu định khung tăng nặng của các tội phạm ở các Điều 275, 262, 263, 264, 266, 276, 268, 272, 275 Bộ luật Hình sự năm 1999. Có 1/20 Điều luật trong Chương XX này có hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là tội vi phạm các quy định về bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng cảnh gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 214). Dấu hiệu “hậu quả nghiêm trọng” có thể là những thiệt hại về vật chất có thể tính toán, đo lường được, cũng có thể là thiệt hại phi vật chất như thiệt hại về chính trị, tinh thần, danh tiếng... không thể tính toán được. Xuất phát từ ngay tiêu đề tên gọi “Các tội xâm phạm TTQLHC” trong Bộ luật Hình sự năm 1999 nên các hành vi xâm phạm gây ra thiệt hại chủ yếu liên quan đến tổ chức, ngành hoặc Nhà nước mà ít liên quan đến cá nhân như các tội phạm khác trong Bộ luật như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội vi phạm quy chế về khu vực biên giới; tội xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy...

Tính chất, mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm TTQLHC gây ra được xác định bởi: Tính chất và mức độ biến đổi đối tượng tác động của tội phạm hoặc những đặc điểm (về chất và lượng) của chính đối tượng tác động đã bị hành vi xâm phạm TTQLHC làm biến đổi tình trạng. Tính chất và mức độ của hậu quả do hành vi phạm tội cụ thể xâm phạm TTQLHC gây ra là căn cứ để chia các tội phạm này thành loại tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở trên, mặt khách quan của các tội xâm phạm TTQLHC còn có công cụ, phương tiện phạm tội, phương pháp, thủ đoạn phạm tội, địa điểm, thời gian phạm tội.

- Công cụ, phương tiện phạm tội xâm phạm TTQLHC là những đối tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình như để thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức, người phạm tội đã sử dụng máy in, mực in để làm ra các tài liệu giả đó...

- Phương pháp, thủ đoạn thực hiện các tội xâm phạm TTQLHC rất đa dạng như phạm tội bằng cách dùng vũ lực đối với người thi hành công vụ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái các quy định về nghĩa vụ quân sự; lén lút, gian dối, uy hiếp thể chất hoặc tinh thần đối với người quản lý tài liệu bí mật nhà nước để lấy các tài liệu đó; dùng giấy tờ giả; mặc trang phục giống với trang phục mà người phạm tội muốn giả mạo; đeo cấp hàm, cấp hiệu giống với cấp hàm, cấp hiệu mà người phạm tội muốn giả mạo; tẩy xóa, viết thêm làm sai lệch nội dung của hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức; in lậu, bán hoặc phân phối lậu các ấn phẩm đã in lậu; in và phát hành các ấn phẩm Nhà nước cấm... Do đó, tùy từng tội phạm cụ thể mà các nhà làm luật đã mô tả các phương pháp, thủ đoạn phạm tội trong từng cấu thành tội phạm cụ thể.

- Thời gian phạm tội không phải là các dấu hiệu bắt buộc đối với các cấu thành cơ bản của các tội xâm phạm TTQLHC. Tuy nhiên, thời gian được Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định là những tình tiết định tội hoặc định khung hình phạt của một số tội phạm cụ thể xâm phạm TTQLHC. Chẳng hạn, “phạm tội trong thời chiến”, “có chiến tranh”, “có lệnh tổng động viên, có nhu cầu tăng cường cho lực lượng thường trực của quân đội” là những tình tiết loại này trong các tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ, tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự...

Bên cạnh đó, một số phương pháp, thủ đoạn phạm tội xâm phạm TTQLHC như “phạm tội có tổ chức”;lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội”; “phạm tội nhiều lần” và “gây hậu quả nghiêm trọng” được coi là các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự của một số tội xâm phạm TTQLHC như tội chống người thi hành công vụ, tội cản trở việc thực hiện nghĩa vụ quân sự... Đối với một số tội xâm phạm TTQLHC, trong cấu thành cơ bản tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt hành chính” về hành vi xâm phạm TTQLHC được coi là dấu hiệu định tội như tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự; tội vi phạm các quy định về quản lý nhà ở...

4. Chủ thể của các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Một người sẽ trở thành chủ thể của tội phạm nếu họ có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà Bộ luật Hình sự quy định. Do đó, chủ thể của các tội phạm này có ba đặc điểm sau:

Một là, một số tội phạm xâm phạm TTQLHC được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 có chủ thể đặc biệt. Đó là các tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự (Điều 259); tội không chấp hành lệnh gọi quân nhân dự bị nhập ngũ (Điều 260); tội làm trái các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự (Điều 261); tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (Điều 263); tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước; tội không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính (Điều 269).

Ngoài ra, đối với mỗi tội phạm này lại có những điểm lưu ý. Chẳng hạn, đối với tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ đối với những người ở một độ tuổi nhất định theo Luật Nghĩa vụ quân sự quy định mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Theo quy định tại Điều 30 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 thì, công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ, công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học sẽ được tạm hoãn gọi nhập ngũ thì độ tuổi gọi nhập ngũ là 27 tuổi, nhưng không phải chỉ những người từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi mới là chủ thể của tội phạm này, vì đó là tuổi gọi nhập ngũ, còn theo quy định tại Điều 12 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015 thì công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Do đó, chủ thể của tội phạm này là công dân nam giới từ đủ 17 tuổi đến hết 27 tuổi... Hoặc đối với công dân nữ, chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này khi họ có chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình không chấp hành việc đăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc không chấp hành lệnh gọi huấn luyện. Nếu trong thời chiến thì họ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này đối với cả hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, còn trong thời bình họ chỉ được gọi nhập ngũ nếu họ tự nguyện, nên không phải là chủ thể của tội phạm này. Như vậy, việc xác định chủ thể của tội phạm này phải căn cứ vào các quy định của Luật Nghĩa vụ quân sự năm 2015.

Hai là, hầu hết các tội phạm xâm phạm TTQLHC là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng nên chủ thể của các tội này không thể là người chưa đủ 16 tuổi. Chỉ có hai tội là tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước (khoản 2 và khoản 3 Điều 263 Bộ luật Hình sự 1999) và tội tổ chức, cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (khoản 2 Điều 275 Bộ luật Hình sự năm 1999) thì chủ thể mới có thể là người dưới 16 tuổi.

Ba là, do Chương XX - Các tội xâm phạm TTQLHC không có tội danh nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng nên người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi do vô ý xâm phạm đến các quan hệ xã hội trong TTQLHC thì không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

4. Mặt chủ quan các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính

Mặt chủ quan của các tội xâm phạm TTQLHC là diễn biến bên trong phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể các tội phạm này đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Trong đó:

- Yếu tố lỗi thường được định nghĩa là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu biện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Trong Chương XX - Các tội xâm phạm TTQLHC quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999, hình thức lỗi cố ý của tội phạm cụ thể được các nhà làm luật xác định rõ ngay trong tội danh như tội cố ý làm lộ bí mật nhà nước; tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức hoặc được xác định thông qua dấu hiệu hành vi, động cơ, mục đích phạm tội như tội giả mạo chức vụ, cấp bậc. Về mặt lý luận, đa số các tội trong nhóm tội xâm phạm TTQLHC là lỗi cố ý, thậm chí thuộc dạng cố ý trực tiếp, trừ tội vô ý làm lộ bí mật nhà nước, tội làm mất tài liệu bí mật nhà nước (Điều 264 Bộ luật Hình sự năm 1999). Các tội xâm phạm TTQLHC đều được thực hiện với động cơ vụ lợi, tư lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác (để thực hiện hành vi trái pháp luật khác) được quy định trong cấu thành cơ bản của tội phạm hoặc dấu hiệu định khung tăng nặng như tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của công dân (Điều 258 Bộ luật Hình sự năm 1999) hoặc tội làm trái quy định về việc thực hiện nghĩa vụ quân sự (Điều 261 Bộ luật Hình sự năm 1999).

Đa phần các tội xâm phạm TTQLHC, mục đích phạm tội không cần thiết phải phản ánh trong cấu thành tội phạm vì nó đã được thể hiện rõ qua hành vi phạm tội hoặc qua hậu quả phạm tội.

Các tội xâm phạm TTQLHC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định tại Chương XX Bộ luật hình sự hiện hành, do những người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy định của Nhà nước về TTQLHC. Vì vậy, việc làm sáng tỏ cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với nhóm tội phạm này để rút ra những nhận xét, đánh giá nhằm tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Hình sự nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng.

ThS. Nguyễn Kim Chi

Học viện Tư pháp


[1] Xem: GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Khách thể của tội phạm - Chương V, Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, tập I, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 1998, tr.84.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.
Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Bảo đảm cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp ở địa phương

Sau hơn 11 năm triển khai thi hành, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở hiến định quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện nay, việc thực hiện các quy định của Hiến pháp và pháp luật liên quan đến Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương vẫn còn một số vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện nhằm để đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Góp ý dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ban hành Kế hoạch tổ chức lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Việc lấy ý kiến Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết nhằm phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động trí tuệ, tâm huyết và tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của toàn dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013, bảo đảm Hiến pháp phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của Nhân dân.
Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Bảo đảm trách nhiệm và cơ chế giải trình khi tiến hành sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013

Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 là một sự kiện chính trị và pháp lý trọng đại, dù ở phạm vi, quy mô nào cũng là một công việc rất hệ trọng, thiêng liêng. Do vậy, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp phải được tiến hành thận trọng, khách quan, dân chủ, khoa học, hiệu quả với sự tham gia tích cực, đồng bộ của các cơ quan, tổ chức, các chuyên gia, nhà khoa học và toàn thể Nhân dân theo đúng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính  – bổ sung nhiều quy định mới

Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính – bổ sung nhiều quy định mới

Trên cơ sở phát biểu đề dẫn của đồng chí Trương Thế Côn, Tổng Biên tập Tạp chí Dân chủ và pháp luật, phát biểu của đồng chí Hồ Quang Huy, Cục trưởng Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính về sự cần thiết, quá trình soạn thảo và định hướng xây dựng Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm pháp luật hành chính, Hội thảo khoa học “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi pham hành chính” đã tiếp nhận được gần 20 ý kiến phát biểu và hơn 10 bài nghiên cứu chuyên sâu. Các bài viết và ý kiến phát biểu tại Hội thảo sẽ được Tạp chí Dân chủ và Pháp luật và Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính tổng hợp, xem xét để gửi tới cá nhân, cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong quá trình xây dựng, quyết định chính sách.
Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp  nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu toàn văn dự thảo Nghị quyết Sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV - xem xét, quyết định 54 nội dung về công tác lập hiến, lập pháp

Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV khai mạc sáng ngày 05/5/2025. Đây là Kỳ họp có nhiều nội dung quan trọng, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII - Hội nghị lịch sử, bàn về những quyết sách lịch sử trong giai đoạn Cách mạng mới của nước ta, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm