Chủ nhật 14/12/2025 04:29
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích - Thực tiễn và giải pháp thực hiện

Xóa án tích là “xóa bỏ việc mang án tích của người hoặc của pháp nhân thương mại đã bị kết án”. Đây là chế định nhân đạo của luật hình sự, thể hiện sự thừa nhận của Nhà nước về mặt pháp lý việc người từng bị kết án đã có đủ điều kiện theo luật định để được coi là chưa bị kết án và do vậy, họ không phải tiếp tục gánh chịu bất cứ hậu quả nào do việc đã từng bị kết án mang lại.

Sự thừa nhận này nhằm khuyến khích những người bị kết án chấp hành nghiêm chỉnh bản án và cải tạo tốt để hòa nhập cộng đồng. So với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015) tiếp tục duy trì 03 hình thức xóa án tích là đương nhiên được xóa án tích, xóa án tích theo quyết định của Tòa án và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt. Trong đó, xóa án tích theo quyết định của Tòa án và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt đều do Tòa án quyết định. Tuy nhiên, khác với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung cơ bản chế định đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn để người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng, sớm ổn định làm ăn, sinh sống. Qua thực tế triển khai quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho thấy đã có nhiều kết quả tích cực. Bên cạnh đó, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp vẫn gặp một số khó khăn, vướng mắc. Trên cơ sở nghiên cứu thực tế xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp của các Sở Tư pháp từ ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực đến nay, bài viết này đề cập quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về đương nhiên được xóa án tích, thực tiễn triển khai thực hiện và kiến nghị những giải pháp để góp phần bảo đảm việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân được thuận lợi, chính xác và đúng thời hạn quy định.

1. Xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích theo quy định của pháp luật

Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy định về việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích. Theo đó, khoản 3 Điều 44 Luật Lý lịch tư pháp quy định: “Trong trường hợp cần thiết, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có trách nhiệm xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp”. Như vậy, theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp, trong quá trình cập nhật thông tin của người bị kết án, khi xác định được người bị kết án đã có đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp có nhiệm vụ cập nhật thông tin, ghi rõ việc “đã được xóa án tích” vào Phiếu lý lịch tư pháp của người bị kết án; trường hợp cấp Phiếu lý lịch tư pháp số 1 sẽ ghi là “không có án tích”. Trách nhiệm của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp trong việc xác minh về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người bị kết án cũng được quy định cụ thể tại Điều 17 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP ngày 23/11/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Lý lịch tư pháp (Nghị định số 111/2010/NĐ-CP). Việc xác minh được tiến hành trong trường hợp người bị kết án đã có đủ thời gian để đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự, nhưng cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa nhận được giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích đối với người đó do Tòa án gửi đến. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có nhiệm vụ xác minh về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời hạn đang có án tích hay không. Việc xác minh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án. Cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã có nhiệm vụ giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện phối hợp xác minh. Trong quá trình xác minh tại Ủy ban nhân dân cấp xã, cơ quan, tổ chức, nếu thấy cần thiết thì xác minh tại cơ quan tiến hành tố tụng có liên quan. Trình tự, thủ tục xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích cũng được hướng dẫn chi tiết tại Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ngày 10/5/2012 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng hướng dẫn trình tự, thủ tục tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp (Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP).

So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định theo hướng mở rộng những trường hợp người bị kết án không bị coi là có án tích; rút ngắn thời hạn để được xóa án tích; thay đổi cách xác định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích theo hướng sớm hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm rút ngắn hơn thời gian xóa án tích. Việc xác định điều kiện đương nhiên được xóa án tích được quy định cụ thể tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:

“1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII và Chương XXVI của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này.

2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo;

b) 02 năm trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm;

c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm;

d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án.

Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này.

4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.

- Về phạm vi các trường hợp đương nhiên được xóa án tích: Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, đương nhiên được xóa án tích được áp dụng với người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XIII (Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXVI (Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh) khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Các thời hạn mà khi hết thời hạn này người bị kết án đã chấp hành xong bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích: So với Bộ luật Hình sự năm 1999, khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã rút ngắn thời hạn đương nhiên được xóa án tích từ các mức 03 năm, 05 năm, 07 năm đối với từng trường hợp xuống các mức thời hạn tương ứng là 02 năm, 03 năm và 05 năm. Cũng theo khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì kể từ thời điểm chấp hành xong hình phạt chính, hết thời gian thử thách án treo mà người bị kết án chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới hoặc khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới thì đương nhiên được xóa án tích. Khi áp dụng thời hạn trên, cần lưu ý trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn nêu trên thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung.

- Về thời hạn đương nhiên được xóa án tích đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành bản án: Thời hạn này được tính kể từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, cá nhân không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Như vậy, so với Điều 64 Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thời điểm để bắt đầu tính thời hạn xóa án tích sớm hơn khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính. Theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, người đã chấp hành xong hình phạt chính trở lại cộng đồng nhiều năm vẫn chưa được xóa án tích do chưa chấp hành xong hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án. Điều này ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân người từng bị kết án khi tái hòa nhập cộng đồng. Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định thay đổi cách xác định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích theo hướng sớm hơn so với quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 nhằm rút ngắn hơn thời gian xóa án tích, tạo điều kiện cho người bị kết án tái hòa nhập cộng đồng sớm hơn.

- Trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án cũng như trong việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích theo yêu cầu của người đã đương nhiên được xóa án tích: Quy định này nhằm thống nhất đầu mối, đề cao trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc xóa án tích, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân trong việc xác nhận đương nhiên được xóa án tích để tái hòa nhập cộng đồng và cũng phù hợp với quy định của pháp luật lý lịch tư pháp về thẩm quyền quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Như vậy, theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, người bị kết án sẽ đương nhiên được xóa án tích nếu: (i) Đã chấp hành xong hình phạt chính, nộp án phí, bồi thường thiệt hại, các hình phạt bổ sung khác. (ii) Không có hành vi phạm tội mới trong thời hạn theo quy định. Trường hợp có hành vi phạm tội khác thì phải xảy ra trước hoặc sau thời hạn đang có án tích về tội đó theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015.

2. Thực tiễn công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua

2.1. Những thuận lợi

Ngoài những trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án và xóa án tích trong trường hợp đặc biệt, pháp luật hình sự đã quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án cũng như trong việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích theo yêu cầu của người đã đương nhiên được xóa án tích. Quy định này vừa phù hợp với quy định của Luật Lý lịch tư pháp trao cho Bộ Tư pháp thẩm quyền quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại địa phương.

(i) Đối với cá nhân

Nếu như trước kia, thực hiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999, để được xóa án tích, cá nhân phải nộp đầy đủ hồ sơ xin xóa án tích lên Tòa án đã xét xử bản án hình sự. Tòa án chỉ cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích chỉ khi cá nhân có yêu cầu hợp lệ. Thực tế đây là một thủ tục rườm rà, phức tạp, gây tốn kém thời gian, công sức cho người dân. Thực hiện quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, cá nhân chỉ cần chuẩn bị một bộ hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp và nộp đến cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp mà không phải cung cấp bất kỳ giấy tờ nào khác, cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp sẽ có trách nhiệm xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích và cấp Phiếu lý lịch tư pháp xác nhận “không có án tích” hoặc “đã được xóa án tích” nếu cá nhân đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Do đó, quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 về đương nhiên được xóa án tích tạo thuận lợi lớn cho cá nhân trong việc xóa án tích và tái hòa nhập cộng đồng.

(ii) Đối với cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp

- Pháp luật về lý lịch tư pháp đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục và thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp nói chung và trong trường hợp phải xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích nói riêng. Đặc biệt, tại Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP đã quy định cụ thể về cơ chế phối hợp và trách nhiệm của mỗi ngành (Tư pháp, Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Quốc phòng) ở trung ương và địa phương trong phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Mối quan hệ phối hợp sẵn có trong công tác xây dựng cơ sở dữ liệu và cấp Phiếu lý lịch tư pháp là lợi thế quan trọng giúp cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp thực hiện tốt vai trò xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với người từng bị kết án. Hơn nữa, để bảo đảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Cục Hồ sơ nghiệp vụ, Bộ Công an (trước là Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát) đã xây dựng, ban hành và triển khai hiệu quả Quy chế phối hợp số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 ngày 29/6/2018 về việc phối hợp tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Với việc ban hành và triển khai đồng bộ các văn bản này, trong thời gian qua đã cơ bản khắc phục được những hạn chế, vướng mắc trong công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp, bảo đảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp nói chung và thời hạn xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp nói riêng.

- Theo quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015, một trong những điều kiện đương nhiên được xóa án tích là người bị kết án không có hành vi phạm tội mới theo thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. Để xác định một người có hành vi phạm tội mới, theo quy định tại khoản 1, khoản 4 Điều 179 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Sở Tư pháp căn cứ vào quyết định khởi tố bị can của cơ quan điều tra đã được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát theo quy định. Ngoài ra, Sở Tư pháp còn phải căn cứ vào một số quyết định khác của cơ quan tiến hành tố tụng, như: Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can; quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án; quyết định phục hồi điều tra, phục hồi vụ án... Như vậy, trường hợp người từng bị kết án có hành vi phạm tội mới thì Sở Tư pháp cũng phải xem xét về tiến trình tố tụng của người đó để thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp được chính xác, đầy đủ. Mặt khác, theo Điều 4 Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, có 03 hệ thống cơ quan điều tra, bao gồm: Cơ quan điều tra của Công an nhân dân; cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân; cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Ngoài ra, tại Điều 9 Luật này còn có 07 nhóm cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 17 Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Điều 25 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP, Sở Tư pháp chỉ tiến hành xác minh thông tin đương sự có bị khởi tố hay không tại Ủy ban nhân dân cấp xã/Công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc là chưa đủ thông tin[1] vì hầu như cơ quan điều tra không gửi quyết định khởi tố bị can đã được Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phê chuẩn về nơi cư trú, nơi làm việc của bị can. Vì vậy, thủ tục xác minh về hành vi phạm tội mới không thể xác minh tại cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp mà phải xác minh tại nhiều nơi, nhiều cơ quan khác nhau.

Để tháo gỡ vướng mắc này, thời gian qua, Bộ Tư pháp đã có giải pháp cho các cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Theo đó, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Cục Hồ sơ nghiệp vụ (trước là Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát) đã ký Quy chế phối hợp số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phối hợp với Cục Hồ sơ nghiệp vụ và Công an cấp tỉnh thực hiện tra cứu, xác minh và trả kết quả cho Sở Tư pháp, trong đó có tích hợp cả thông tin về hành vi phạm tội mới. Đây là giải pháp tháo gỡ vướng mắc giúp các Sở Tư pháp không cần phải thực hiện xác minh hành vi phạm tội mới tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú và ở các cơ quan khác, bảo đảm kết quả cấp Phiếu lý lịch tư pháp chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật.

2.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong công tác lý lịch tư pháp

Trước khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, thẩm quyền xóa án tích do cơ quan Tòa án thực hiện, vì vậy, các Sở Tư pháp thường yêu cầu cá nhân có yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp cung cấp giấy chứng nhận xóa án tích do cơ quan Tòa án cấp. Sở Tư pháp thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích “trong trường hợp cần thiết” theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp.

Sau khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực, Sở Tư pháp thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đối với tất cả các trường hợp yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp có thông tin án tích. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp khi nhận được hồ sơ yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp với mục đích xóa án tích thì ngoài việc xác minh về việc thi hành xong bản án, cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp có nhiệm vụ xác minh người bị kết án “không có hành vi phạm tội mới”. Theo báo cáo của các Sở Tư pháp, tính đến ngày 30/6/2020, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp đã tiến hành xác minh, cấp 20.706 Phiếu lý lịch tư pháp[2] cho các trường hợp đương nhiên được xóa án tích.

Nghiên cứu thực tiễn thực hiện pháp luật lý lịch tư pháp liên quan đến vấn đề xóa án tích cho các trường hợp đương nhiên được xóa án tích trong những năm qua, bên cạnh những thuận tiện cho người dân và tính hợp lý trong quy định của pháp luật liên quan vì mục tiêu phục vụ nhân dân thì việc thực hiện xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp đã gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cụ thể:

Hiện nay, việc xác minh người bị kết án chấp hành xong hay chưa chấp hành xong bản án gặp một số khó khăn sau:

Thứ nhất, không có thông tin về quá trình thi hành án

Trường hợp các Sở Tư pháp thường gặp khi tra cứu, xác minh đối với thông tin có trước ngày 01/7/2010 (ngày Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực), đó là kết quả tra cứu, xác minh tại cơ quan Công an xác nhận có án tích. Sở Tư pháp đề nghị Tòa án đã xét xử cung cấp bản án và các cơ quan có liên quan cung cấp thông tin về quá trình thi hành án, tuy nhiên, do bản án đã được Tòa án tuyên cách đây nhiều năm nên người bị kết án cũng như Tòa án, cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được hồ sơ bản án và các giấy tờ, tài liệu liên quan đến quá trình thi hành án… Cơ quan cấp Phiếu lý lịch tư pháp đã phải xác minh tại nhiều nơi nhưng vẫn không đủ căn cứ để xác định rõ tình trạng án tích của công dân khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Thứ hai, việc chấp hành hình phạt chính

Thực tiễn xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích cho thấy, nhiều trường hợp người bị kết án và bị tuyên phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, kết quả xác minh tại các cơ quan có liên quan cho thấy đương sự đã thi hành xong các quyết định khác trong bản án hình sự (có văn bản xác nhận của cơ quan có thẩm quyền) nhưng không có hoặc không còn lưu giữ giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù. Mặt khác, đương sự cũng đủ điều kiện về mặt thời gian không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn đang có án tích quy định tại Điều 70 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc không có thông tin về việc chấp hành xong hình phạt chính của đương sự cũng là một khó khăn cho Sở Tư pháp khi cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Tương tự với hình phạt tù có thời hạn, nhiều trường hợp người bị kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo, phạt cải tạo không giam giữ nhưng quá trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích thấy rằng, kết quả tra cứu, xác minh tại các cơ quan có liên quan đều không có thông tin về giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo, giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ. Kết quả xác minh tại cơ quan được giao giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách (chủ yếu là Ủy ban nhân dân cấp xã) đều chỉ trả lời không có thông tin hoặc không tìm thấy hồ sơ thi hành án của đương sự hoặc trường hợp tính đến thời điểm hiện tại, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người chấp hành hình phạt đó không còn hoạt động (đã phá sản, giải thể). Những khó khăn, vướng mắc trên khiến Sở Tư pháp lúng túng trong việc xác định điều kiện đương nhiên được xóa án tích và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho đương sự.

Thứ ba, việc chấp hành hình phạt bổ sung, nghĩa vụ dân sự, án phí theo quy định của Luật Thi hành án dân sự

Theo khoản 1 Điều 30, điểm c khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), Điều 4 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ), trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án. Hết thời hiệu này, cơ quan Thi hành án dân sự sẽ từ chối yêu cầu thi hành án.

Thực tế khi xác minh về tình trạng thi hành án phí, nghĩa vụ dân sự, bồi thường thiệt hại… thấy rằng, đối với việc thi hành các quyết định dân sự này, có nhiều trường hợp sau khi bị kết án, những người bị kết án với nhiều lý do khác nhau đã không thi hành và theo quy định sẽ không đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích. Hiện nay, do nhu cầu của cá nhân, những người này thực hiện yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp và có mong muốn thi hành các quyết định dân sự nêu trên để đương nhiên được xóa án tích. Tuy nhiên, có rất nhiều trường hợp, sau khi nhận được đề nghị của những người này, cơ quan Thi hành án dân sự đã từ chối thi hành (trường hợp thi hành án theo yêu cầu) vì đã quá thời hiệu thi hành án (trừ những trường hợp chứng minh được do trở ngại khách quan theo quy định). Tuy nhiên, có nhiều trường hợp khó khăn trong việc chứng minh, lấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền về những trở ngại do bản án đã quá lâu, do sự thay đổi về đơn vị hành chính, con người; hoặc không có khả năng, điều kiện để thi hành, trình độ hiểu biết pháp luật kém, người được thi hành án không có yêu cầu thi hành… Hiện nay, mặc dù có mong muốn được thi hành nhưng vì cơ quan Thi hành án dân sự không thụ lý nên những người bị kết án này không thể hoàn thành các quyết định dân sự. Đặc biệt, có những trường hợp, sau khi cơ quan Thi hành án dân sự từ chối thi hành thì những người bị kết án đã liên hệ với người được thi hành án dân sự để thi hành nhưng người này đã chết hoặc không thể liên lạc được do đi khỏi nơi cư trú hoặc nhiều nguyên nhân khác. Vì vậy, những người bị kết án này không thể đương nhiên được xóa án tích, gây bức xúc và nhiều khó khăn trong công tác tiếp nhận, xử lý và cấp Phiếu lý lịch tư pháp tại các địa phương.

Đối với khó khăn, vướng mắc trên, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã phối hợp với Tổng cục Thi hành án dân sự cùng tháo gỡ, tạo điều kiện cho công dân được thi hành các nghĩa vụ dân sự trong bản án hình sự (Công văn số 648/TCTHADS-NV2 ngày 03/3/2020 của Tổng cục Thi hành án dân sự gửi Cục Thi hành án dân sự tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương). Tuy nhiên, việc thực hiện của các cơ quan Thi hành án dân sự chưa được thống nhất, có nơi thực hiện, có nơi chưa thực hiện, từ chối người có yêu cầu, mong muốn được thi hành án.

Thứ tư, việc thi hành án dân sự trong bản án hình sự đối với những án tích có trước thời điểm Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành

Hiện nay, đối với các bản án có trước năm 1993, việc thi hành án phí là do Tòa án thực hiện. Một số Chi cục Thi hành án dân sự từ chối thụ lý đối với nghĩa vụ thi hành án phí, tịch thu sung quỹ nhà nước đối với những án tích có trước thời điểm Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 được ban hành với lý do thời điểm đó Tòa án là cơ quan có thẩm quyền thi hành các nghĩa vụ trên, không phải trách nhiệm của cơ quan Thi hành án dân sự mặc dù người phải thi hành án chủ động đề xuất thi hành án để đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích. Đối với những trường hợp này, người có yêu cầu xin cấp Phiếu lý lịch tư pháp có thể đề nghị cơ quan Thi hành án dân sự địa phương cho thi hành những nghĩa vụ dân sự còn lại của bản án hình sự để đương nhiên được xóa án tích hay không?

Thứ năm, đương sự chưa thi hành án do lỗi của cơ quan nhà nước

Theo phản ánh của một số Sở Tư pháp, có trường hợp sau khi xác minh thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích cho đương sự thấy rằng, bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án đã xét xử sơ thẩm có kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên, do sơ suất, Tòa án đã xét xử sơ thẩm không chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm nên đến khi xác minh thông tin, vụ án chưa được xét xử theo trình tự phúc thẩm, đương sự chưa thi hành án. Kết quả tra cứu, xác minh này khiến Sở Tư pháp lúng túng, không biết phải cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho đương sự là có án tích hay không có án tích.

Trường hợp Tòa án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định ủy thác thi hành án một thời gian dài (nhiều năm) nhưng Tòa án được ủy thác không nhận được quyết định nên không ra quyết định thi hành án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 364 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác thi hành của Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm thì Chánh án Tòa án được ủy thác phải ra quyết định thi hành án”. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp, Tòa án được ủy thác không nhận được văn bản ủy thác, dẫn đến việc người bị kết án chưa thể thi hành hình phạt ngoài tù hoặc án phạt tù cho hưởng án treo, cải tạo không giam giữ… Trường hợp này cũng gây khó khăn cho Sở Tư pháp trong việc xác định điều kiện đương nhiên được xóa án tích của đương sự.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Xuất phát từ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích theo quy định tại Bộ luật Hình sự năm 2015 nêu trên, một số địa phương đề xuất cần có một bộ thủ tục hành chính về cấp Phiếu lý lịch tư pháp đối với các trường hợp này, trong đó quy định các loại giấy tờ cần thiết để chứng minh đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích (như bản án, các loại quyết định, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án của người bị kết án…). Tuy nhiên, đề xuất này lại quay trở lại sự hạn chế của Bộ luật Hình sự năm 1999: “Thủ tục xin cấp giấy chứng nhận đã được xóa án tích hết sức phức tạp, gây phiền hà, tốn kém thời gian, công sức cho người dân (ví dụ: Họ phải đi xin bản án, xin giấy xác nhận đã chấp hành xong các hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án, xác nhận về việc không phạm tội mới…)[3]. Có trường hợp, mặc dù đã thi hành xong bản án nhưng do không xin được đầy đủ các giấy tờ nên đã không đủ điều kiện được xóa án tích.

Để bảo đảm thi hành những quy định mới của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các trường hợp đương nhiên được xóa án tích, khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích trong thời gian qua, tác giả đề xuất một số giải pháp như sau:

Thứ nhất, các bộ, ngành cần có hướng dẫn nghiệp vụ và chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực do bộ, ngành mình quản lý để xử lý kịp thời, cụ thể đối với các trường hợp có khó khăn, vướng mắc nêu trên nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho Sở Tư pháp trong việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người có yêu cầu.

Thứ hai, tăng cường công tác xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp: Bảo đảm các cơ quan có liên quan (Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, Thi hành án dân sự…) cung cấp kịp thời và đầy đủ các thông tin lý lịch tư pháp cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp) theo quy định. Đồng thời, các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, cập nhật kịp thời, đầy đủ các thông tin lý lịch tư pháp nhận được vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.

Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục quan tâm hơn nữa, bố trí biên chế và kinh phí cho Sở Tư pháp của địa phương mình để xây dựng cơ sở dữ liệu và cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Thứ ba, hiện nay, pháp luật quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong việc cập nhật thông tin đương nhiên được xóa án tích và cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người bị kết án khi có đủ điều kiện. Vì vậy, để bảo đảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân cũng như phục vụ việc xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích, Sở Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có liên quan như cơ quan Thi hành án hình sự, cơ quan Thi hành án dân sự, cơ quan Tòa án để việc phối hợp tra cứu, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp bảo đảm chính xác, kịp thời, đầy đủ theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, để kết quả cấp Phiếu lý lịch tư pháp nói chung, kết quả xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích để cấp Phiếu lý lịch tư pháp nói riêng bảo đảm chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, các Sở Tư pháp cần phối hợp chặt chẽ với Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và cơ quan hồ sơ nghiệp vụ thực hiện Quy chế phối hợp số 02/QCPH-TTLLTPQG-C53 trong tra cứu, xác minh thông tin để cấp Phiếu lý lịch tư pháp.

Thứ tư, tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, trong đó chú trọng bồi dưỡng những nội dung mới liên quan đến lĩnh vực lý lịch tư pháp của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và nghiệp vụ xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.

Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lý lịch tư pháp. Thiết lập và thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giữa cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác có liên quan như: Cơ sở dữ liệu của Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Thi hành án dân sự, cơ quan Thi hành án hình sự…

Chế định đương nhiên được xóa án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 là một chế định mang tính nhân đạo của pháp luật hình sự, thể hiện sự thừa nhận về mặt pháp lý đối với người bị kết án không còn mang án tích và vì vậy, không phải tiếp tục gánh chịu hậu quả do việc kết án mang lại, tạo điều kiện cho người phạm tội không bị mặc cảm bởi sự phân biệt của xã hội. Biểu hiện pháp lý cơ bản nhất của chế định xóa án tích là người được xóa án tích “coi như chưa bị kết án”. Bản chất nhân đạo của chính sách này càng được thể hiện rõ nét khi gắn với việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho người đã được xóa án tích. Thay vì việc xin giấy chứng nhận xóa án tích của cơ quan Tòa án, người được xóa án tích nhận được Phiếu lý lịch tư pháp có nội dung xác nhận “không có án tích” hoặc “đã được xóa án tích” sẽ tham gia các quan hệ xã hội như xin việc làm, xuất khẩu lao động… và hòa nhập cộng đồng dễ dàng hơn. Với những nghiên cứu về khó khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tế quá trình xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích và đưa ra những đề xuất sẽ phần nào giúp cho công tác xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích được thuận lợi và bảo đảm thời hạn cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân theo quy định./.


[1] Do Nghị định số 111/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BQP ban hành trước khi có Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 nên nhiều nội dung, trong đó có nội dung này còn bất cập.

[2] Theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Lý lịch tư pháp của Bộ Tư pháp.

[3] Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp, Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) - Phần những quy định chung, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2019, tr. 269.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bài viết nêu lên vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước và đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong giai đoạn mới.
Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Vai trò của Bộ Tư pháp trong xây dựng, hoàn thiện thể chế, thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch

Trong quá trình phát triển của đất nước, đặc biệt, trong 10 năm gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội Việt Nam, việc xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật là công tác đặc biệt quan trọng. Với sự nỗ lực không ngừng, Bộ Tư pháp đã cùng các bộ, ngành làm tốt công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đưa pháp luật vào cuộc sống, góp phần quan trọng trong thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, giữ vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của Nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, văn minh theo đường lối của Đảng và Nhà nước. Để đạt được những thành tựu đó, nhiều hoạt động đã được triển khai đồng bộ, từ công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL); đặc biệt, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực làm công tác xây dựng, thi hành pháp luật. Bộ Tư pháp đã chủ động, tích cực phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, trong đó có Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong công tác xây dựng thể chế, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác pháp chế.
Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Bộ, ngành Tư pháp với công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, tổ chức thi hành pháp luật và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho đất nước

Với chức năng là cơ quan của Chính phủ, thực hiện quản lý nhà nước về xây dựng và thi hành pháp luật, Bộ Tư pháp đã và đang đóng góp, góp phần quan trọng trong kiến tạo nền tảng pháp lý vững chắc, phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; đồng thời, đóng vai trò chủ đạo trong xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ pháp luật, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết quả đạt được thể hiện qua các nội dung chính sau:
Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Công tác tư pháp tỉnh Lai Châu - Thành tựu và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Ngày 01/01/2004, tỉnh Lai Châu chính thức được chia tách thành tỉnh Điện Biên và Lai Châu. Đây cũng là thời điểm Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu (mới) được thành lập và đi vào hoạt động. Trải qua hơn 21 năm xây dựng và phát triển, ngành Tư pháp tỉnh Lai Châu đã vượt qua khó khăn, thử thách, ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò, vị thế của mình.
Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Công tác trợ giúp pháp lý cho đối tượng yếu thế - Những khó khăn, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện thể chế từ góc nhìn của luật sư

Trợ giúp pháp lý (TGPL) là một trong những chính sách xã hội có ý nghĩa nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm quyền được tiếp cận công lý bình đẳng của mọi tầng lớp Nhân dân, đặc biệt là nhóm những người yếu thế trong xã hội. Thông qua các hoạt động TGPL, người yếu thế trong xã hội được cung cấp, sử dụng dịch vụ pháp lý miễn phí khi có tranh chấp, góp phần nâng cao ý thức pháp luật và phòng ngừa vi phạm pháp luật. Trong hoạt động TGPL, đội ngũ luật sư đóng vai trò then chốt, là lực lượng trực tiếp thực hiện việc tư vấn, đại diện và bào chữa cho các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, thực tế cho thấy công tác TGPL còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cả về cơ chế, nguồn lực và phương thức triển khai.
Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị

Việc tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong giảng dạy chương trình Trung cấp lý luận chính trị là yêu cầu tất yếu, góp phần trực tiếp vào việc xây dựng bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin và năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ đương chức và dự nguồn cấp cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn công tác giảng dạy và yêu cầu đổi mới giáo dục lý luận chính trị, cần đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả tích hợp nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong học phần “Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng, phát triển địa phương – ngành – đoàn thể” thuộc chương trình Trung cấp lý luận chính trị (Học phần) tại Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Thực tiễn thi hành Luật Tương trợ tư pháp phần về dân sự

Sau hơn 17 năm thi hành, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, thực tiễn đời sống xã hội đang đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với hoạt động TTTP về dân sự. Do đó, việc tổng kết thực tiễn thực hiện Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là cần thiết, từ đó, đánh giá những điểm còn hạn chế so với yêu cầu thực tiễn, làm cơ sở đề xuất hoàn thiện pháp luật TTTP về dân sự trong bối cảnh mới.
Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Đào tạo pháp luật vì cộng đồng và định hướng phát triển trong giai đoạn mới

Trường Cao đẳng Luật miền Bắc được nâng cấp từ Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên theo Quyết định số 869/QĐ-LĐTBXH ngày 10/7/2020 của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (nay là Bộ Nội vụ), đã kế thừa hơn một thập kỷ kinh nghiệm đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp lý cấp cơ sở, đặc biệt, tại khu vực trung du và miền núi phía Bắc.
Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số tại Bộ, ngành Tư pháp - Thực trạng và định hướng phát triển trong kỷ nguyên mới

Bộ Tư pháp đã trang bị, bổ sung, ứng dụng các công nghệ mới như máy chủ ảo hóa, lưu trữ SAN; máy chủ ứng dụng, máy chủ cơ sở dữ liệu cho Trung tâm dữ liệu điện tử để đáp ứng yêu cầu quản lý, vận hành và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp.
Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Công tác hành chính tư pháp - Thành tựu và định hướng phát triển trong thời gian tới

Bài viết về những thành tựu nổi bật và định hướng phát triển công tác hành chính tư pháp trong thời gian tới.
Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Phát huy vai trò là diễn đàn khoa học trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (Tạp chí) là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, có chức năng thông tin về khoa học pháp lý, thông tin lý luận, nghiệp vụ và thực tiễn trong xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp; tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước theo quy định pháp luật; đồng thời, là diễn đàn trao đổi học thuật, thực tiễn và chính sách trong lĩnh vực pháp luật[1].
Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam với sứ mệnh truyền thông tư pháp, pháp luật, vì Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Báo Pháp luật Việt Nam là cơ quan ngôn luận của Bộ Tư pháp, thực hiện chức năng thông tin về các hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp và các vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội trong nước và quốc tế; truyền thông, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoạt động xây dựng, thi hành pháp luật và công tác tư pháp phục vụ yêu cầu quản lý của Bộ Tư pháp, đáp ứng nhu cầu của xã hội về thông tin, nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật và hoạt động của Bộ, ngành Tư pháp, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước bằng pháp luật, phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tham gia định hướng tư tưởng, phản biện xã hội, khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết và tự lực, tự cường của Nhân dân, đồng hành với an sinh xã hội.
Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng bầu cử quốc gia

Để bảo đảm cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XVI và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2026-2031 được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật và thống nhất trên phạm vi cả nước, Hội đồng bầu cử quốc gia (HĐBCQG) được thành lập, giữ vai trò tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH); chỉ đạo và hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân (HĐND). Việc tìm hiểu cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG có ý nghĩa quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và cử tri thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời giúp cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện tốt nhiệm vụ trong công tác bầu cử.
Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới

Bài viết phân tích một số thành tựu và định hướng phát triển công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật, xử lý vi phạm hành chính và tổ chức thi hành pháp luật trong kỷ nguyên mới của Cục Kiểm tra văn bản và Quản lý xử lý vi phạm hành chính, Bộ Tư pháp.
Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý của Bộ, ngành Tư pháp - Thành tựu đạt được và những yêu cầu trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước

Trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu khoa học của Bộ Tư pháp đã khẳng định được vai trò cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn, giúp Lãnh đạo Bộ tham mưu với các cấp có thẩm quyền xây dựng các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác pháp luật, tư pháp, về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Theo dõi chúng tôi trên: