Thứ ba 17/06/2025 10:46
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Ai là chủ sở hữu quyền tác giả đối với học liệu?

Tóm tắt: Bài viết phân tích quy định của Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam về quyền tác giả, sở hữu quyền tác giả đối với học liệu, chuyển nhượng quyền tác giả đối với học liệu; đồng thời nêu lên thực trạng chuyển giao, sở hữu quyền tác giả đối với học liệu giữa giảng viên với nhà trường ở một số trường đại học và đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.


Abstract: The paper analyzes provisions of the Law on intellectual property of Vietnam on copyright, copyright ownership of school materials, transfer of copyright of school materials and at the same time it raises the real situation of transfer of copyright ownership of school materials between teacher and school in some universities and proposes some recommendations for completing this issue.

Việc xác định tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với học liệu tại trường đại học là cần thiết nhằm giúp mọi người, nhà trường, giảng viên, sinh viên nhận biết được ai là chủ thể quyền đối với các loại tài liệu học tập, tránh tình trạng phát sinh những tranh chấp không đáng có giữa nhà trường và giảng viên, hạn chế việc xâm phạm quyền tác giả, quyền sở hữu đối với học liệu và tích cực bảo vệ tác quyền của tác giả và quyền của chủ sở hữu, kích thích hoạt động sáng tạo, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng để phục vụ sinh viên, mọi người.

Chủ thể sáng tạo ra học liệu chính là tác giả của học liệu đó nhưng không phải bất kỳ lúc nào tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu đối với tác phẩm của mình. Nếu trong trường hợp giảng viên là chủ thể được trường đại học thuê để biên soạn ra học liệu thì giảng viên là tác giả của học liệu nhưng không đồng thời là chủ sở hữu, mà chính trường đại học là chủ sở hữu đối với học liệu. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác nhau, không phải lúc nào tất cả các học liệu do giảng viên viết ra nhà trường đều làm chủ sở hữu đối với chúng.

1. Quyền tác giả, sở hữu quyền tác giả đối với học liệu, chuyển nhượng quyền tác giả đối với học liệu

Quyền tác giả là quyền của giảng viên đối với học liệu do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu. Vậy học liệu được hiểu như thế nào? Theo quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ, thì học liệu là một dạng cụ thể của tác phẩm văn học, khoa học được Nhà nước bảo hộ thể hiện dưới hình thức như giáo trình hoặc bài giảng thể hiện bằng hình thức viết, bài phát biểu, bài giảng, bài nói khác nhau, dưới dạng ngôn ngữ nói và được định hình dưới dạng vật chất nhất định.

Các trường đại học thường có các loại học liệu như giáo trình, tài liệu học tập, tài liệu lưu hành nội bộ, tài liệu hướng dẫn học, tài liệu ôn tập, bài giảng, bài giảng phát thanh, bài giảng trực tuyến, bài giảng LMS, sách tham khảo, bài giảng đa phương tiện… Bên cạnh đó, những bài giảng trực tuyến được ghi âm lẫn ghi hình của giảng viên cũng là học liệu thể hiện dưới hình thức ghi hình.

Căn cứ vào quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ, thì những học liệu này do giảng viên biên soạn ra thì giảng viên là tác giả đối với học liệu hoặc giảng viên là tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu đối với học liệu. Tuy nhiên, không phải lúc nào giảng viên cũng là tác giả và đồng thời là chủ sở hữu đối với các loại học liệu này mà trường đại học lại là chủ sở hữu đối với chúng vì học liệu này được hình thành là do nhà trường thuê, giao nhiệm vụ cho giảng viên biên soạn thì nhà trường sẽ là chủ sở hữu quyền tác giả đối với học liệu. Hoặc nhà trường được giảng viên chuyển giao quyền tác giả cũng là chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, trường đại học có phải là tác giả của học liệu mà do giảng viên biên soạn ra hay không và nếu trường đại học là tác giả của học liệu thì trường đại học mà cụ thể là ban giám hiệu sẽ được quyền chỉ đạo đặt tên, sửa tên, sửa đổi, bổ sung những nội dung vào trong học liệu. Bên cạnh đó, hội đồng mà do ban giám hiệu chỉ định để xem xét sửa đổi, bổ sung học liệu nếu không có giảng viên biên soạn tham gia ban đầu trong hội đồng này thì hội đồng mới (hội đồng sửa đổi, bổ sung học liệu) có được tự ý sửa đổi những nội dung trong học liệu hay không.

Để trả lời cho vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu quy định của pháp luật về tác giả theo đó, tác giả là người nắm giữ các quyền nhân thân bao gồm: Quyền đặt tên cho tác phẩm; đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm; bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả. Bên cạnh đó, tác giả đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả, thì họ còn được sử dụng các quyền tài sản theo quy định pháp luật. Tác giả có thể chuyển giao quyền công bố tác phẩm cho cá nhân khác theo quy định pháp luật. Như vậy, trường đại học không thể là tác giả của học liệu mà giảng viên, người biên soạn ra học liệu mới chính là tác giả của tác phẩm.

Căn cứ vào quy định trên, trường đại học không thể là tác giả của học liệu mà chỉ có thể là chủ sở hữu của học liệu trong trường hợp trường giao việc hoặc được chuyển giao quyền sở hữu đối với học liệu. Luật Sở hữu trí tuệ phân biệt các dạng chủ sở hữu bao gồm: Chủ sở hữu quyền tác giả là tác giả; chủ sở hữu quyền tác giả là các đồng tác giả; chủ sở hữu quyền tác giả là tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với tác giả; chủ sở hữu quyền tác giả là người thừa kế; chủ sở hữu quyền tác giả là người nhận chuyển nhượng quyền tác giả. Như vậy, trường đại học có thể là chủ sở hữu của học liệu trong trường hợp trường đại học giao nhiệm vụ cho giảng viên biên soạn học liệu hoặc giao kết hợp đồng với giảng viên hoặc nhận chuyển nhượng quyền tác giả đối với học liệu từ giảng viên. Như vậy, nếu trường đại học là chủ sở hữu quyền tác giả đối với học liệu thì nắm giữ một, một số hoặc toàn bộ các quyền tài sản sau: Làm học liệu phái sinh; sao chép học liệu; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao học liệu; truyền đạt học liệu đến mọi người bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. Ngoài ra, nhà trường là chủ sở hữu quyền tác giả cũng có quyền công bố học liệu hoặc cho phép người khác công bố học liệu nếu được giảng viên chuyển giao quyền. Trong khi đó, giảng viên là tác giả của học liệu, giảng viên sẽ được sử dụng các quyền nhân thân đối với học liệu mà không được là chủ sở hữu đối với học liệu vì giảng viên đã chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho nhà trường.

2. Thực trạng chuyển giao, sở hữu quyền tác giả đối với học liệu giữa giảng viên và nhà trường ở một số trường đại học

Thực tế về quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đối với học liệu tại các trường đại học hiện nay cho thấy hầu hết các trường là chủ sở hữu đối với học liệu nếu học liệu này do giảng viên biên soạn và giảng viên được nhà trường giao việc đối với giảng viên cơ hữu tại trường, còn đối với giảng viên không cơ hữu thì sẽ được nhà trường giao kết hợp đồng với giảng viên để biên soạn học liệu.

- Nếu các học liệu được ghi tên trường đại học trên học liệu thì học liệu này do trường làm chủ sở hữu nhưng nhóm giảng viên biên soạn vẫn là tác giả của học liệu.

- Nhà trường quy định vào trong quy chế giảng rằng những học liệu do giảng viên biên soạn trong thời gian làm việc cho nhà trường thông qua hợp đồng làm việc có thời hạn hoặc không xác định thời hạn, làm việc theo biên chế của nhà trường thì những học liệu biên soạn trong thời gian này thuộc quyền sở hữu của nhà trường.

- Tùy theo học liệu, như bài giảng trực tuyến thì mỗi môn học nhà trường sẽ ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng của học liệu này giữa nhà trường và giảng viên.

- Những giáo trình, sách tham khảo được giảng viên biên soạn không ghi tên của nhà trường thì nhà trường sẽ ký hợp đồng thỏa thuận chuyển giao quyền sở hữu cho nhà trường và trả tiền mua quyền sở hữu cho giảng viên một lần.

Ở hai trường hợp này, thông thường nhà trường sẽ trả tiền một lần sau khi nghiệm thu xong học liệu nhưng trong quá trình có tái bản thì giảng viên sẽ được một khoản tiền trên số lượng tái bản đó.

- Những sách tham khảo được viết trong thời gian làm việc tại nhà trường nhưng không ghi tên nhà trường trên học liệu, nhà trường cũng không yêu cầu chuyển giao thì những tác phẩm này nhà trường không sở hữu mà giảng viên vừa là tác giả vừa là chủ sở hữu đối với học liệu.

Khi chuyển giao sở hữu quyền tác giả đối với học liệu giữa giảng viên và nhà trường thông qua hợp đồng chuyển giao thì thông thường sẽ thực hiện bằng hai hình thức sau đây: (i) Nhà trường có quyền sở hữu học liệu thì nhà trường có quyền làm học liệu phái sinh; sao chép học liệu; phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao học liệu; truyền đạt học liệu đến mọi người bằng phương tiện hữu tuyến, vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác. Ngoài ra, nhà trường là chủ sở hữu quyền tác giả cũng có quyền công bố học liệu hoặc cho phép người khác công bố học liệu nếu được giảng viên chuyển giao quyền. (ii) Nhà trường có quyền sử dụng có thời hạn một, một số hoặc toàn bộ quyền đối với học liệu như hình thức (i). Theo đó, giữa hai hình thức chuyển giao thông qua hợp đồng chuyển giao giữa giảng viên và nhà trường là khác nhau nhưng về nội dung là giống nhau vì dù đó là chuyển giao quyền sở hữu quyền tác giả hay chuyển giao quyền sử dụng thì nhà trường cũng không có quyền định đoạt đối với học liệu. Chúng ta dựa vào quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và Bộ luật Dân sự để áp dụng vào thực tiễn thì trong trường hợp này có hai cách hiểu khác nhau: Nếu như chuyển giao quyền sở hữu theo như quy định của Bộ luật Dân sự thì nhà trường phải có quyền định đoạt học liệu nghĩa là được quyền chỉnh sửa nội dung của học liệu, còn chuyển giao quyền sử dụng thì không được, nhưng theo Luật Sở hữu trí tuệ thì cả hai hình thức chuyển giao nhà trường đều không được quyền chỉnh sửa nội dung đối với học liệu. Ở đây, nhà trường và giảng viên cho rằng nếu hai thuật ngữ này là khác nhau nhưng có nghĩa giống nhau thì nên dùng một thuật ngữ, còn nếu để hai thuật ngữ khác nhau thì phải có nghĩa khác nhau để tránh sự nhầm lẫn. Ngoài ra, nếu nhà trường và giảng viên ký hợp đồng chuyển giao nhưng sau đó giảng viên không cộng tác với trường nữa thì trường thông qua hội đồng khoa học có được phép chỉnh sửa nội dung trong học liệu của giảng viên là tác giả của học liệu đó hay không. Tiếp theo, đối với hình thức giao việc cho giảng viên cơ hữu thì khi giảng viên thôi việc tại trường, nhà trường có được phép tự ý chỉnh sửa nội dung của học liệu này không. Theo quy định về quyền nhân thân thì nhà trường không được phép chỉnh sửa nội dung học liệu. Vậy, nếu hai bên thỏa thuận về quyền được chỉnh sửa nội dung học liệu nghĩa là chuyển giao một số quyền nhân thân của tác giả có được hay không. Đây là điểm vướng mắc mà giảng viên và nhà trường quan tâm, theo quan điểm của tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ cần phải quy định các bên được quyền thỏa thuận chuyển giao một số quyền nhân thân trong những trường hợp cần thiết. Vì đây là quyền dân sự cho nên nếu các bên có thỏa thuận thì tôn trọng sự thỏa thuận này.

3. Kết luận

Việc chuyển giao quyền sở hữu quyền tác giả, quyền sử dụng quyền tác giả cần quy định thống nhất thành một thuật ngữ trong Luật Sở hữu trí tuệ theo cách hiểu là các bên được chuyển giao quyền sử dụng đối với tác phẩm (học liệu). Ngoài ra nên quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ là nếu các bên có quyền thỏa thuận chuyển giao một số quyền nhân thân của tác giả thì vẫn cho phép chuyển nhượng. Với quy định bổ sung này sẽ tránh trường hợp giảng viên thôi việc, không làm việc theo hợp đồng làm việc thì nhà trường có thể chỉnh sửa học liệu linh động theo quy định chi tiết trong hợp đồng thỏa thuận chuyển giao quyền sử dụng đối với học liệu mà không vi phạm quyền tác giả của giảng viên.

TS. Lê Thị Tuyết Hà

Đại học Mở TP. Hồ Chí Minh



Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Ngày 11/6/2025, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 120/2025/NĐ-CP quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương 02 cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 120/2025/NĐ-CP). Nghị định bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động bình thường, liên tục, thông suốt của các cơ quan; không để gián đoạn công việc, không để chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực, địa bàn; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của xã hội, người dân, doanh nghiệp khi thực hiện chính quyền địa phương hai cấp từ ngày 01/7/2025 trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp.
Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp

Nhằm thể chế hoá đầy đủ quan điểm chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phân quyền, phân cấp; bảo đảm việc triển khai nhiệm vụ được thông suốt, hiệu quả, kịp thời, cải cách tối đa thủ tục hành chính, giảm chi phí, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2025/NĐ-CP quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp (Nghị định số 121/2025/NĐ-CP).
Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tư nhân bứt phá

Kinh tế tư nhân chiếm hơn 70% cơ cấu kinh tế Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng quốc gia, tuy nhiên, khu vực này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng do còn nhiều rào cản về thủ tục, chính sách và thiếu cơ chế phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp. Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển (Nghị quyết số 198/2025/QH15) và Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 17/5/2025 của Chính phủ về việc ban hành Kế hoạch của Chính phủ triển khai Nghị quyết số 198/2025/QH15 (Nghị quyết số 139/NQ-CP) với nhiều cơ chế, chính sách quan trọng sẽ góp phần “cởi trói”, tạo động lực để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh đất nước đang bước vào kỷ nguyên mới.
Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Quyết tâm mạnh mẽ bảo đảm quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người ở Việt Nam

Việt Nam đã thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và cam kết rõ ràng trong việc bảo vệ quyền không bị tra tấn hoặc đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo. Quyết tâm này được thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa kể từ khi Việt Nam gia nhập Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước UNCAT) vào năm 2015. Những nỗ lực của Việt Nam trong bảo đảm quyền này không chỉ thể hiện qua việc hoàn thiện hệ thống pháp luật mà còn qua việc triển khai các biện pháp hành chính, tư pháp và hợp tác quốc tế.
Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Xây dựng pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới

Luật Thi hành án dân sự được Quốc hội khóa XII đã thông qua ngày 14/11/2008, được sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2018, 2020, 2022 (Luật Thi hành án dân sự). Sau gần 17 năm triển khai thực hiện, công tác thi hành án dân sự đã đạt được nhiều kết quả tích cực, được Đảng, Nhà nước và Nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội của đất nước.
Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước

Ở nước ta, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền được tiếp cận thông tin được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp, pháp luật. Cùng với sự phát triển của đất nước và quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương về vấn đề bảo vệ quyền con người. Trong đó quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin ngày càng được bảo đảm tốt hơn, thông qua quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia và quá trình nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia.
Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Phát triển kinh tế tư nhân nhanh, bền vững, hiệu quả, chất lượng cao - Nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, mang tính chiến lược lâu dài của Đảng và Nhà nước

Sau gần 40 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới. Tuy nhiên, kinh tế tư nhân hiện vẫn đối mặt với nhiều rào cản, chưa bứt phá về quy mô và năng lực cạnh tranh, chưa đáp ứng được yêu cầu, kỳ vọng là lực lượng nòng cốt của kinh tế đất nước. Để triển khai hiệu quả Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc toàn diện của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp.
Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Nhiều chính sách mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025, kịp thời tháo gỡ khó khăn, “điểm nghẽn” về thể chế, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp

Từ ngày 01/7/2025, nhiều luật do Quốc hội khóa XV thông qua chính thức có hiệu lực thi hành với nhiều chính sách mới có tính đột phá, góp phần khơi thông “điểm nghẽn” về thể chế, tạo động lực phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, sẵn sàng đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, thịnh vượng của dân tộc.
Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh: Nỗ lực cao nhất để sớm đưa Cổng Pháp luật quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp

Sáng nay (31/5/2025), tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng lãnh đạo nhiều bộ, ngành Trung ương đã bấm nút khai trương Cổng Pháp luật quốc gia. Nhân dịp này, chúng tôi đã có cuộc phỏng vấn nhanh Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thanh Tịnh, cơ quan được Chính phủ giao làm đầu mối vận hành Cổng Pháp luật quốc gia về nội dung này.
Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản  quy phạm pháp luật

Nhiều quy định mới về quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Ngày 19/02/2025, tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9, Quốc hội khoá XV đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2025. Ngày 01/4/2025, Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2025/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp để tổ chức, hướng dẫn thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Nghị định số 78/2025/NĐ-CP). Luật và Nghị định có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/4/2025, có nhiều quy định mới được bổ sung để hoàn thiện quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo hướng ngắn gọn, đơn giản hơn về các bước, thành phần hồ sơ, rút ngắn thời gian xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Bộ Tư pháp ban hành Kế hoạch triển khai lấy ý kiến Nhân dân về sửa đổi Hiến pháp, trình Chính phủ chậm nhất ngày 03/6/2025

Thực hiện nhiệm vụ được Quốc hội và Chính phủ giao, đồng chí Nguyễn Hải Ninh, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ký ban hành Quyết định số 1355/QĐ-BTP ngày 28/4/2025 chính thức ban hành Kế hoạch triển khai nhiệm vụ của Bộ Tư pháp về việc tổ chức lấy ý kiến và tổng hợp ý kiến của Nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.

Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Nhận diện những rào cản trong đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.

Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Giải pháp khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo

Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu bài viết “Một số hạn chế trong quy định pháp luật về thành lập và ưu đãi tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo” trong ấn phẩm 200 trang “Đổi mới tư duy xây dựng pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo” xuất bản năm 2025.
Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới cơ chế thi hành pháp luật, bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng trong xây dựng Nghị định số 80/2025/NĐ-CP về tổ chức thi hành văn bản quy phạm pháp luật được Chính phủ ban hành ngày 01/4/2025 (Nghị định số 80/2025/NĐ-CP).

Theo dõi chúng tôi trên:

mega story

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm