Thứ sáu 04/07/2025 16:18
Email: danchuphapluat@moj.gov.vn
Hotline: 024.627.397.37 - 024.62.739.735

Bàn về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và ban hành giá đất theo dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

Hội đồng nhân dân (HĐND) là một trong những thiết chế quan trọng trong việc thực hiện quyền dân chủ đại diện của nhân dân. Phát huy vai trò, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của HĐND trong công tác quản lý, giám sát hoạt động quản lý nhà nước, trong đó có lĩnh vực đất đai, là một trong những phương thức chủ yếu để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Trên cơ sở nội dung các bản Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, Luật Đất đai năm 2013 và Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), tác giả phân tích những bất cập của quy định pháp luật về thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh trong việc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và việc ban hành giá đất; đề nghị hướng sửa đổi, bổ sung nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm việc sử dụng tài nguyên đất hợp lý, hiệu quả.

1. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định trong các bản Hiến pháp và Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương

1.1. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định trong các bản Hiến pháp

Chế định pháp luật về HĐND ra đời ngay từ khi xây dựng bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điều thứ 59 Hiến pháp năm 1946 quy định: “HĐND quyết nghị về những vấn đề thuộc địa phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của các cấp trên”. Cho dù cách diễn đạt tuy có khác nhau, nhưng trong các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992, năm 2013 đều quy định: (i) HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên; (ii) HĐND quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND.

Trong thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh có quyền giải tán HĐND cấp dưới trực tiếp khi HĐND này làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân một cách nghiêm trọng sau khi được sự phê chuẩn của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 86 Hiến pháp năm 1959) hoặc là Hội đồng Nhà nước (khoản 11 Điều 115 Hiến pháp năm 1980). Nội dung này không được quy định trực tiếp trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, mà được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 (khoản 8 Điều 17, khoản 4 Điều 25), Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2019 (Luật Tổ chức chính quyền địa phương) (Điều 139). Hay nói cách khác, đây là “quyền năng của HĐND cấp tỉnh không trọn vẹn, độc lập” mà lệ thuộc vào ý chí của cơ quan quyền lực nhà nước ở cấp hành chính cao hơn. Còn đối với các lĩnh vực khác, quyền lực của HĐND được quy định trong các bản Hiến pháp đều thể hiện tính độc lập của mình, với yêu cầu là phù hợp với các văn bản pháp luật của cấp trên.

1.2. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015

Theo khoản 2 Điều 13 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, ngoài những chức năng quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội, xây dựng chính quyền địa phương, khoa học và công nghệ,… thì trong lĩnh vực tài nguyên, HĐND cấp tỉnh có quyền quyết định biện pháp quản lý và sử dụng đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển tại địa phương theo quy định của pháp luật. Nội dung này được kế thừa trong điểm h khoản 3 Điều 19 Luật Tổ chức chính quyền địa phương quy định: “Thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh trước khi trình Chính phủ phê duyệt; quyết định biện pháp quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác, bảo vệ môi trường trong phạm vi được phân quyền”. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc cụ thể hóa thẩm quyền của HĐND trong các văn bản pháp luật chuyên ngành.

2. Thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh được quy định trong Luật Đất đai và Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi)

2.1. Đối với việc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất

Trong quản lý nhà nước về đất đai, việc xây dựng, phê duyệt và quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ pháp luật đất đai, nhất là trong điều kiện đặc thù ở nước ta hiện nay, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Vì nhân dân không thể trực tiếp thực hiện việc quản lý, nên phải thông qua thiết chế dân chủ đại diện để thực hiện quyền năng của mình trong lĩnh vực đất đai và như vậy, không ai khác hơn ngoài Quốc hội, HĐND mới có thể đảm đương được nhiệm vụ, trọng trách ấy. Do vậy, điều mà nhân dân kỳ vọng vào người đại diện của mình trong việc quản lý đất đai thể hiện trong pháp luật chuyên ngành, cụ thể là trong lĩnh vực quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất như sau:

Thứ nhất, về hệ thống quy hoạch sử dụng đất:

Điều 36 Luật Đất đai năm 2013 được sửa đổi, bổ sung năm 2018 (Luật Đất đai) quy định: Quy hoạch sử dụng đất bao gồm: Quy hoạch sử dụng đất quốc gia; quy hoạch sử dụng đất cấp huyện; quy hoạch sử dụng đất quốc phòng; quy hoạch sử dụng đất an ninh. Đối với cấp tỉnh, phương án phân bổ và khoanh vùng đất đai theo khu chức năng và theo loại đất đến từng đơn vị hành chính cấp huyện là một nội dung của quy hoạch tỉnh. Kế hoạch sử dụng đất bao gồm: Kế hoạch sử dụng đất quốc gia; kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; kế hoạch sử dụng đất quốc phòng; kế hoạch sử dụng đất an ninh. Như vậy, có thể thấy, so với Luật Đất đai năm 2013, Luật được sửa đổi đã bỏ quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh trong hệ thống quy hoạch sử dụng đất.

Theo Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) về hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được lập đồng bộ, thống nhất, bao gồm: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất an ninh. Nghĩa là, Dự thảo lần này quy định trở lại như nội dung của Luật Đất đai năm 2013. Theo tác giả, việc quy định bổ sung quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh là phù hợp, thay vì phải áp dụng viện dẫn khi lập quy hoạch sử dụng đất cấp huyện theo “quy hoạch tỉnh” do không có quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh được quy định tại Điều 40 Luật Đất đai năm 2013. Trong khi đó, khoản 8 Điều 3 Luật Quy hoạch năm 2017 quy định: Quy hoạch tỉnh là quy hoạch cụ thể hóa quy hoạch tổng thể quốc gia, quy hoạch vùng ở cấp tỉnh về không gian các hoạt động kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hệ thống đô thị và phân bố dân cư nông thôn, kết cấu hạ tầng, phân bố đất đai, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường trên cơ sở kết nối quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn. Hay nói cách khác, quy hoạch tỉnh tích hợp rất nhiều yếu tố; trong đó có “phân bố đất đai”, chứ không phải là quy hoạch sử dụng đất đai và điều đó sẽ gây khó khăn trong việc làm cơ sở, xây dựng quy hoạch sử dụng đất cấp huyện.

Thứ hai, về thẩm quyền quyết định, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:

Theo Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) thì chỉ có cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội mới có quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch cấp quốc gia; còn đối với quy hoạch, kế hoạch cấp tỉnh, cấp huyện thuộc thẩm quyền xét duyệt của Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện; hay nói cách khác, việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các địa phương thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính các cấp; còn HĐND thực hiện quyền lực của mình bằng cách “thông qua” quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do Ủy ban nhân dân cùng cấp trình, trước khi trình cơ quan hành chính nhà nước cấp trên xét duyệt.

Thứ ba, cơ quan tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất:

Chính phủ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Đối với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất an ninh, Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) không đề cập đến vai trò tham gia ý kiến của nhân dân hoặc cơ quan đại diện là HĐND, mà chỉ nêu Bộ Quốc phòng, Bộ Công an có trách nhiệm lấy ý kiến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Mặc dù, trong quá trình tổ chức lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp huyện, cơ quan có trách nhiệm lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân theo quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong thời gian qua, kể từ ngày Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực (ngày 01/7/2014) cho thấy, với hàng loạt các bản đồ quy hoạch đủ loại màu sắc, kích thước, nếu không có kiến thức về bản đồ địa chính kết hợp với việc đọc kỹ thuyết minh chi tiết, có khi phải đi thực địa (đối với những vùng giáp ranh hoặc có địa hình phức tạp) thì ngay cả đối với người có nghiệp vụ quản lý đất đai, muốn hiểu rõ nội dung của quy hoạch cũng không phải là dễ. Đó là chưa kể đến, pháp luật hiện hành chưa có những quy trình cụ thể về việc tiếp nhận của người có thẩm quyền đối với những đóng góp của người dân với tư cách cá nhân, hay là của cả cộng đồng dân cư về việc chưa đồng tình với nội dung nào đó trong quy hoạch. Nếu như cơ quan nhà nước có thẩm quyền không đồng tình với ý kiến góp ý của nhân dân, không đưa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất thông qua thiết chế dân chủ đại diện, mà vẫn quyết định phê duyệt thì khi có xung đột lợi ích về những nội dung trên xảy ra sẽ được giải quyết như thế nào; vai trò của người chủ sở hữu đất đai đích thực là toàn dân trong từng trường hợp cụ thể ra sao, hiện vẫn chưa có câu trả lời thấu đáo.

Với những quy định trên, tác giả có một số vấn đề cần đặt ra như sau:

(i) Hành vi pháp lý “thông qua” văn bản của Ủy ban nhân dân cùng cấp đệ trình của HĐND chưa được quy định trong các bản Hiến pháp như đã viện dẫn ở trên, vì thẩm quyền của HĐND là giám sát, quyết định.

(ii) Hành vi pháp lý “thông qua” của HĐND khác với Quốc hội. Ý chí của Quốc hội sau khi thông qua một nội dung nào đó, được thể hiện bằng nghị quyết, luật, bộ luật sẽ có giá trị thi hành tại thời điểm nhất định được ấn định trong văn bản; còn nghị quyết của HĐND thể hiện ý chí của mình sau khi thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải chờ văn bản của Ủy ban nhân dân cấp trên “quyết định” mới có hiệu lực thi hành.

(iii) Qua các quy định về thẩm quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho thấy, thiết chế dân chủ đại diện đã được thể hiện rõ nét về vai trò của Quốc hội ở tầm quy hoạch cấp quốc gia; còn đối với quy hoạch cụ thể ở từng địa phương, từng lĩnh vực cụ thể cần có sự tham gia của HĐND, pháp luật chưa quy định thẩm quyền của họ “ngang tầm” với quyền Hiến định.

Như vậy, việc quyết định quy hoạch của Quốc hội ở tầm quốc gia là cơ sở để các cơ quan hành chính nhà nước quyết định phê duyệt các quy hoạch chi tiết. Thoạt nhìn, chúng ta có thể thấy vai trò của cơ quan quyền lực thực hiện thiết chế đại diện để thực hiện quyền định đoạt của chủ sở hữu là “toàn dân” giao phó đã thể hiện cụ thể. Tuy nhiên, điều mà người dân quan tâm, đó là ai sẽ bảo vệ quyền lợi khi từng thửa đất cụ thể của họ bị thu hồi do việc lập, phê duyệt quy hoạch sử dụng đất thiếu khoa học hoặc bị chi phối bởi lợi ích nhóm, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Quy hoạch thì “hoành tráng” nhưng không tính tới nhu cầu sử dụng và nguồn lực thực hiện nên không khả thi; quy hoạch có khi bị chi phối bởi lợi ích cục bộ hoặc tư tưởng bình quân”[1].

Trong trường hợp này, HĐND đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người có đất bị thu hồi - với tư cách vừa là chủ sở hữu đất đai, vừa là đối tượng bị tác động của chính sách đất đai; bởi lẽ, họ được nhân dân bầu, sống gần dân, là người địa phương nên hơn ai hết, họ biết rõ trình tự, thủ tục lập, chất lượng quy hoạch và những vấn đề diễn biến xoay quanh nội dung này.

(iv) Việc “tách rời” chức năng của HĐND, trong đó có việc tham gia ý kiến đóng góp đối với các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an lập, vô hình trung đã tạo ra “khoảng trống” trong việc giám sát quá trình quy hoạch, sử dụng đất của lực lượng vũ trang. Có thể các nhà làm luật cho rằng, đây là lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia cần được bảo mật, nên nội dung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải được thông qua bằng một quy trình đặc biệt hơn. Tuy nhiên, với sự phát triển của khoa học - công nghệ, đối với các quốc gia có sử dụng vệ tinh và các thiết bị khác thì việc biết được diễn biến sử dụng đất của một quốc gia khác không phải là điều khó khăn, nên lập luận của tác giả đưa ra ở trên về công tác bảo mật khó có thể “đứng vững” được.

2.2. Đối với việc ban hành giá đất

Về việc ban hành giá đất, so với Luật Đất đai, việc xây dựng giá đất trong Dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) đã bỏ căn cứ khung giá đất nên phải dựa vào giá đất phổ biến trên thị trường; bên cạnh đó, bảng giá đất được xây dựng định kỳ hàng năm và công bố công khai vào ngày 01 tháng 01 của năm thay vì được xây dựng định kỳ 05 năm một lần. Tuy nhiên, nội dung Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng và trình HĐND cấp tỉnh “thông qua” bảng giá đất trước khi Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định ban hành thì cơ bản vẫn được giữ lại trong Dự thảo.

Điều này có nghĩa là, việc xem xét cho ý kiến của HĐND chỉ mang tính thủ tục, còn thẩm quyền quyết định thuộc về Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Về quy trình, thủ tục, nội dung cho ý kiến của HĐND hiện vẫn chưa có văn bản pháp luật nào quy định. Về mặt ngữ nghĩa, ý kiến là sự nhìn nhận, cách nghĩ, đánh giá, nhận xét về điều gì đó, thường được phát biểu ra bằng lời, văn bản như: Phát biểu ý kiến, trao đổi ý kiến, lấy ý kiến của từng người[2]. Theo cách hiểu này thì HĐND có quyền nhận xét về bảng giá đất do Ủy ban nhân dân cùng cấp trình; còn kết quả nhận xét đó được Ủy ban nhân dân tiếp thu như thế nào thì pháp luật chưa quy định cụ thể.

3. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong việc xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và ban hành giá đất

Khác với các nước có mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo hướng tam quyền phân lập, các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đối trọng, kiềm chế, kiểm soát lẫn nhau trong từng hoạt động của mỗi nhánh quyền lực, trong Nhà nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Để thực hiện được điều đó, cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các thiết chế phù hợp để các cơ quan trong bộ máy nhà nước vận hành đồng bộ, bảo đảm sự giám sát lẫn nhau, tránh việc lạm quyền làm phương hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; trong đó, việc phát huy vai trò của HĐND trong công tác quản lý nhà nước về đất đai là yêu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Trên cơ sở phân tích những hạn chế như đã trình bày ở phần trên, tác giả đề xuất sửa đổi, bổ sung một số nội dung có liên quan đến công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và ban hành giá đất theo hướng bảo đảm vai trò của HĐND cấp tỉnh như sau:

Thứ nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, do vậy, tính quyền lực phải thể hiện rõ nét trong việc “quyết định” những vấn đề quan trọng, thể hiện ý chí của mình thông qua việc ban hành các nghị quyết có hiệu lực pháp luật, được thi hành ngay, thay cho thủ tục đang được áp dụng hiện nay: Một số nghị quyết của HĐND trong lĩnh vực đất đai dường như chỉ là thủ tục “trung gian”, phải chờ đến cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, hay cấp trên ban hành “quyết định” thì nghị quyết đó mới phát sinh hiệu lực.

Thứ hai, về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tác giả đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng:

(i) Ủy ban nhân dân cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch trình HĐND cùng cấp quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất sau khi xin ý kiến cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên.

Cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên có trách nhiệm kiểm tra các nội dung có liên quan như: Sự phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp trên, ranh giới quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tính khả thi,… và cho ý kiến bằng văn bản. Ý kiến của cơ quan có thẩm quyền chuyên môn quản lý về đất đai cấp trên là một trong những căn cứ để HĐND xem xét, quyết định.

Nghị quyết của HĐND về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có hiệu lực thi hành, không phải thêm thủ tục chờ Ủy ban nhân dân ban hành văn bản.

(ii) Trước khi trình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc phòng, an ninh lên Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, đơn vị lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất gửi hồ sơ đến HĐND cấp tỉnh có liên quan để cho ý kiến. Ý kiến của HĐND cấp tỉnh là một trong căn cứ để Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.

Thứ ba, về việc ban hành giá đất, tác giả đề nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng:

Cũng tương tự như cách đặt vấn đề ở phần quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nghị quyết của HĐND về việc ban hành giá đất có hiệu lực thi hành, không phải thêm thủ tục Ủy ban nhân dân ban hành văn bản.

Tóm lại, việc bảo đảm ý chí của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương được thể hiện trong lĩnh vực đất đai như đã luận giải nêu trên sẽ góp phần vào việc làm lành mạnh hóa quan hệ đất đai, bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân./.

TS. Lê Ngọc Thạnh

Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh


[1] Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, truy cập tại địa chỉ: Http://sggp.org.vn/chinhtri/2011/12/277205/, ngày 27/12/2011.

[2] Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 1885.

Bài liên quan

Tin bài có thể bạn quan tâm

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Hoàn thiện khung pháp lý về bảo vệ dữ liệu cá nhân của trẻ em trong môi trường số ở Việt Nam hiện nay

Trong bối cảnh công nghệ số phát triển mạnh mẽ, việc bảo vệ dữ liệu cá nhân nói chung, đặc biệt là dữ liệu của trẻ em - đối tượng dễ bị tổn thương - trở thành vấn đề cấp thiết. Thời gian qua, mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc xây dựng khung pháp lý bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế, thách thức cần giải quyết. Bài viết tập trung phân tích khung pháp lý hiện hành của Việt Nam về bảo vệ dữ liệu cá nhân trẻ em, đánh giá những kết quả đạt được và hạn chế, đồng thời, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện nhằm bảo đảm quyền và lợi ích tốt nhất của trẻ em trong môi trường số.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013

Thực tiễn cho thấy, việc thể chế hóa chế định quyền con người, quyền công dân sau hơn 10 năm Thi hành Hiến pháp năm 2013 đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng cũng còn hạn chế, khó khăn nhất định. Để tiếp tục hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân cần thực hiện đúng, đầy đủ trách nhiệm theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và thể chể hóa các chủ trương, chính sách mới của Đảng về đổi mới tư duy xây dựng, thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Giới hạn, điều kiện áp dụng hình phạt theo luật nhân quyền quốc tế và gợi mở hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bài viết phân tích các quy định về giới hạn và điều kiện áp dụng hình phạt trong luật nhân quyền quốc tế, qua đó, chứng minh luật nhân quyền quốc tế đặt ra những giới hạn và điều kiện về bản chất, mức độ, đối tượng, thủ tục áp dụng hình phạt trong tố tụng hình sự nhằm ngăn chặn sự lạm quyền trong việc phòng, chống tội phạm và thúc đẩy tính nhân đạo của tư pháp hình sự. Đồng thời, bài viết cũng khảo sát, nghiên cứu kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức, Na Uy, Canada và Nam Phi, qua đó, gợi ý một số cải cách để Việt Nam có thể tham khảo, tiếp thu có chọn lọc góp phần hoàn thiện pháp luật về áp dụng hình phạt tiệm cận hơn với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế về vấn đề này.
Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính

Xử phạt vi phạm hành chính là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính. Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đang được sửa đổi và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV với nhiều điểm mới, đặc biệt là các quy định liên quan đến thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Bài viết phân tích, luận giải một số vấn đề như điều kiện xử phạt hành chính không lập biên bản, quyền giải trình đối với trường hợp xử phạt theo thủ tục không lập biên bản, thời hạn chuyển biên bản vi phạm hành chính đến người có thẩm quyền xử phạt, về người chứng kiến ký biên bản vi phạm hành chính và kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy về định thủ tục xử phạt vi phạm hành chính tại dự thảo Luật.
Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính

Bài viết tập trung phân tích những vướng mắc, bất cập của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, sửa đổi, bổ sung các năm 2014, 2017, 2020, 2022 (Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) về thủ tục giải trình trong xử phạt vi phạm hành chính, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước

Theo quy định pháp luật, thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thuộc về Tòa án nhân dân cấp huyện. Để áp dụng biện pháp này, các cơ quan hành chính phải lập hồ sơ đề nghị để Tòa án nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định cho phép thực hiện. Bài viết nghiên cứu, phân tích về thẩm quyền và thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, đồng thời, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong bối cảnh tinh gọn bộ máy nhà nước.
Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bất cập trong nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và đề xuất, kiến nghị

Bài viết chỉ ra những bất cập về nguyên tắc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và từ đó, đề xuất kiến nghị giúp khắc phục bất cập trong công tác xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức.
Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Thực hiện phân quyền, phân cấp trong bối cảnh xây dựng mô hình chính quyền địa phương hai cấp

Khi thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, việc đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động của chính quyền địa phương nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới là điều cần thiết. Các địa phương sau sắp xếp đứng trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới, vận hành hiệu quả mô hình tổ chức chính quyền địa phương. Bài viết đề xuất một số kiến nghị để tiếp tục đẩy mạnh phân quyền, phân cấp trong hoạt động chính quyền địa phương, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của nền công vụ trong bối cảnh mới.
Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Hoàn thiện chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013

Ngày 05/5/2025, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 194/2025/QH15 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, nhằm thể chế hóa kịp thời chủ trương của Đảng về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tạo cơ sở pháp lý thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Bài viết nghiên cứu, phân tích về những nội dung cần bổ sung vào chế định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới

Thời gian qua, Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đặc biệt, dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đang lấy ý kiến nhân dân để thực hiện các chủ trương của Đảng về việc sắp xếp lại chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp, không tổ chức cấp huyện. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đòi hỏi bộ máy hành chính phải được tổ chức khoa học, tinh, gọn, minh bạch, hiệu quả nhằm tạo đà cho đất nước phát triển càng trở lên cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã và đòi hỏi của thực tiễn, bài viết đề xuất một số gợi mở về đổi mới tổ chức, hoạt động của Ủy ban nhân dân xã trong thời gian tới.
Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Xây dựng chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới - Góc nhìn từ cơ sở

Trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội như hiện nay, việc tổ chức lại bộ máy chính quyền theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo dự thảo Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (dự thảo Nghị quyết) là yêu cầu tất yếu. Điều này đòi hỏi phải cải cách toàn diện cả về cấu trúc chiều ngang (sáp nhập địa giới hành chính) và chiều dọc (rút gọn cấp chính quyền trung gian) nhằm mở rộng không gian phát triển, tăng cường tính liên kết giữa trung ương và cơ sở, đồng thời nâng cao chất lượng phục vụ Nhân dân. Bài viết nghiên cứu mô hình tổ chức chính quyền địa phương gắn với địa bàn cụ thể dưới góc nhìn từ cơ sở (Tây Nguyên) để đưa ra những phân tích, nhận định và đề xuất giải pháp cho việc cải cách chính quyền địa phương theo dự thảo Nghị quyết.
So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

So sánh mô hình chính quyền địa phương giữa Cộng hòa Pháp với Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương ở Việt Nam

Bài viết phân tích, nghiên cứu thiết chế chính quyền địa phương ở Cộng hòa Pháp và Việt Nam; so sánh một số điểm tương đồng, khác biệt về tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương theo hiến pháp của hai nước. Trên cơ sở mô hình tổ chức, hoạt động chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp, bài viết đề xuất một số kiến nghị để Việt Nam nghiên cứu tiếp thu có chọn lọc nhằm xây dựng hệ thống chính trị tinh, gọn, mạnh, hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành cuộc “cách mạng” về tinh gọn bộ máy theo các chủ trương, chính sách của Đảng và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013.
Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng pháp lý và khuyến nghị hoàn thiện

Bài viết tập trung phân tích thực trạng pháp lý về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam và thực tiễn áp dụng trí tuệ nhân tạo vào xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử. Trên cơ sở nhận diện những khó khăn, vướng mắc, bài viết đề xuất các khuyến nghị để xây dựng khung pháp lý toàn diện, hiệu quả hơn trong việc tích hợp trí tuệ nhân tạo vào công tác xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử tại Việt Nam trong thời gian tới.

Trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bài viết phân tích, đánh giá một số khía cạnh pháp lý, kinh tế của chế độ trách nhiệm hữu hạn trong các loại hình công ty, từ đó, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện về chế độ trách nhiệm hữu hạn trong pháp luật doanh nghiệp hiện hành ở Việt Nam.

Hoàn thiện quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dùng vào việc thờ cúng

Bài viết nghiên cứu, phân tích các quy định pháp luật về căn cứ chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng qua các thời kỳ và thực tiễn áp dụng pháp luật qua công tác xét xử của Tòa án đối với tranh chấp liên quan đến chấm dứt sử dụng di sản dung vào việc thờ cúng, từ đó, đưa ra một số gợi mở nhằm hoàn thiện chế định này.

Theo dõi chúng tôi trên:

trung-nguyen
hanh-phuc
cong-ty-than-uong-bi
vien-khoa-hoac-cong-nghe-xay-dung
bao-chi-cm