Để tìm hiểu thêm về vấn đề này, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật trân trọng giới thiệu đến độc giả bài viết “Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam” của tác giả Hoàng Văn Hạnh, đăng tải trong số tháng 3 (336) năm 2020. Trong bài viết này, tác giả làm rõ vai trò, tầm quan trọng của nguyên tắc suy đoán vô tội và những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ khi thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
1. Nguyên tắc suy đoán vô tội - Nguyên tắc pháp lý quan trọng của tố tụng hình sự
Suy đoán vô tội xuất hiện lần đầu tiên ở thời La Mã cổ đại vào thế kỷ thứ VI khi Hoàng đế La Mã ban hành bản tóm lược Luật La Mã. Người ta đã khẳng định rằng, trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo, thuộc bên khẳng định chứ không phải bên phủ định, những tư tưởng này chỉ được các quan tòa áp dụng trong tố tụng dân sự. Đây được coi là cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội[1]. Tuy nhiên, suy đoán vô tội chỉ chính thức được xem như một nguyên tắc mang tính công cụ của pháp luật bởi luật gia người Pháp Jean Lemoine nhằm ủng hộ cho suy luận mang tính pháp lý rằng hầu hết mọi người không phải là tội phạm.
Suy đoán vô tội theo tiếng Anh là “presumption of innocence”, với nghĩa là quyền được giả định vô tội, theo đó, người bị cáo buộc thực hiện một tội phạm được coi (được giả định) là không có tội cho đến khi cơ quan công tố thuyết phục được Tòa án rằng bị cáo đã phạm tội[2]. Theo Từ điển Bách khoa luật học, suy đoán vô tội là trạng thái mà theo đó người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định[3]. Theo Từ điển Bách khoa đương đại, suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc của nền tố tụng dân chủ, theo đó người bị buộc tội được suy đoán vô tội trong khi việc phạm tội của người đó chưa được chứng minh theo trình tự luật định và chưa được xác định bởi phán quyết đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án[4].
Nguyên tắc suy đoán vô tội chính thức được quy định tại Điều 9 Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cộng hòa Pháp năm 1789 như sau: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc”. Tuyên ngôn này được coi là mốc son trong lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc suy đoán vô tội[5].
Trong Tuyên ngôn Thế giới về Nhân quyền năm 1948 của Liên Hợp quốc, nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định ở Điều 11, theo đó: “Một người bị buộc tội có hành vi phạm tội được coi là vô tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một cách hợp pháp trong một vụ xét xử công khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa của người đó”. Nguyên tắc suy đoán vô tội cũng được quy định tại khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hiệp quốc, cụ thể là: “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”.
Từ quy định của các công ước quốc tế, pháp luật tố tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới đã thừa nhận và coi nguyên tắc suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc trong tố tụng hình sự của quốc gia mình. Theo quy định của pháp luật Liên bang Nga: “Bị can được coi là không có tội, chừng nào lỗi của họ không được chứng minh theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và không bị Tòa án tuyên phạt bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật; người bị tình nghi hoặc bị can không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Vấn đề chứng minh tội phạm và bác bỏ những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm của bên buộc tội; mọi nghi ngờ về tội phạm của bị can nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì phải được giải thích có lợi cho bị can; bản án kết tội không thể được dựa trên giả định”[6]. Pháp luật Canada quy định: “Bất kỳ người nào bị buộc phạm một tội đều có quyền suy đoán vô tội cho đến khi được một Tòa án độc lập và công bằng xét xử một cách công khai theo quy định của pháp luật”[7]. Ở Trung Quốc, mặc dù tên gọi của nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được ghi nhận trong luật nhưng nội dung quan trọng nhất của nguyên tắc này đã được thừa nhận, chỉ khi một người bị đem ra xét xử ở Tòa án và có bản án có hiệu lực pháp luật, thì người đó mới được coi là có tội: “Không ai bị coi là có tội, nếu không bị xét xử bởi một Tòa án nhân dân theo quy định của pháp luật”[8]. Giai đoạn xét xử là giai đoạn nguyên tắc suy đoán vô tội được áp dụng một cách triệt để nhất cho đến khi bản án, quyết định của Tòa án đưa ra có hiệu lực pháp luật.
Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 tại Chương II - “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” đã quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”[9]. Đó chính là nội dung đầy đủ của một nguyên tắc pháp lý quan trọng - nguyên tắc suy đoán vô tội. Để thi hành Hiến pháp, bảo đảm sự phù hợp của pháp luật tố tụng hình sự với Hiến pháp, Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định một nguyên tắc hoàn toàn mới của tố tụng hình sự Việt Nam, đó là “nguyên tắc suy đoán vô tội” với nội dung như sau: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.
Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, ở mức độ khác nhau đều ghi nhận những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội, phát huy một cách tối đa nhất mọi biện pháp để bảo đảm quyền con người trong quá trình tố tụng hình sự của mỗi quốc gia.
2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự ở Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm vốn được giải thích là “làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được và có đầy đủ các yếu tố, điều kiện cần thiết để thực hiện được”[10]. Với cách hiểu này, bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự là sự ghi nhận đầy đủ về mặt lập pháp các quy định pháp luật có liên quan đến nguyên tắc suy đoán vô tội; sự thực thi chính xác, đầy đủ và khách quan của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nhằm làm cho người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định, thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Việc bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự có vai trò và ý nghĩa to lớn, bởi lẽ, suy đoán vô tội là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng của nền tư pháp dân chủ, nhân đạo, là nguyên tắc nền tảng của tố tụng hình sự và là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền con người.
Với nội dung cơ bản, xuyên suốt là việc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nguyên tắc suy đoán vô tội đặt ra các yêu cầu chi phối toàn bộ hoạt động xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, cũng như những người tiến hành tố tụng hình sự. Suy đoán vô tội không cấm điều tra viên, kiểm sát viên cáo buộc người phạm tội và chứng minh việc phạm tội nhưng cấm đối xử với người bị buộc tội như đối với người phạm tội trong khi việc thực hiện hành vi của họ chưa được chứng minh theo đúng trình tự luật định và chưa có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Suy đoán vô tội gắn bó chặt chẽ với quyền được bào chữa của người bị buộc tội. Họ không buộc phải chứng minh mình vô tội hay thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án Minenli kiện Thụy Sỹ, Tòa án Nhân quyền châu Âu xác định: “Suy đoán vô tội bị vi phạm, nếu trước đó việc phạm tội của bị cáo không được chứng minh theo pháp luật và trước hết, nếu anh ta không có cơ hội thực hiện việc bào chữa của mình”[11].
Theo quy định của Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về nguyên tắc suy đoán vô tội đã phản ánh rõ 03 nhóm nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội. Những nội dung này cũng đồng thời là những đòi hỏi, những điều kiện cần và đủ khi thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự. Nếu quá trình điều tra, truy tố, xét xử một người bị nghi ngờ là có hành vi phạm tội mà thực hiện không đúng, không đầy đủ những nội dung trên, thì người bị buộc tội đó phải được coi là vô tội. Cụ thể:
Thứ nhất, không ai có thể bị coi là có tội khi tội phạm do họ thực hiện chưa được chứng minh theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Người bị buộc tội phải được coi là vô tội cho tới khi tội và lỗi của người đó được chứng minh. Nói khác đi, đây là nguyên tắc “lỗi không được chứng minh, đồng nghĩa với sự vô tội được chứng minh”. Yêu cầu này đã tạo ra sự an toàn pháp lý cho người bị buộc tội trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Yêu cầu đặt ra trong nguyên tắc này hoàn toàn phù hợp với khoản 2 Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc. Theo đó, mọi người đều có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân, không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ. Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật.
Việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Nội dung này nhấn mạnh yêu cầu về mặt thủ tục pháp lý, là dấu hiệu quan trọng nhất của chế độ pháp quyền, theo đó, thủ tục công khai, minh bạch là đòi hỏi số một cho việc bảo vệ quyền con người chống lại sự truy bức tùy tiện. Khoản 1 Điều 9 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc cũng đã khẳng định: “Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền tự do đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định”. Theo tinh thần đó, nhiều điều luật cụ thể của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã nhấn mạnh các yêu cầu nghiêm ngặt về trình tự, thủ tục, coi đó cũng là một nguyên tắc của tố tụng hình sự: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực hiện theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không được giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử ngoài những căn cứ và trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định” (Điều 7).
Dưới áp lực của đòi hỏi về tính thủ tục chặt chẽ, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định trong một chương riêng về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt. Các biện pháp đó bao gồm: Ghi âm bí mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 233). Trong những trường hợp đó, Bộ luật đã xác định chặt chẽ những đảm bảo cho việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp công nhận, bảo đảm và bảo vệ[12].
Thứ hai, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định phải bảo đảm xác định và xem xét các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định vô tội, các tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (Điều 10). Yêu cầu về chứng minh tội và lỗi của người bị buộc tội cũng đặt ra vấn đề trách nhiệm chứng minh. Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi rằng, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về phía buộc tội. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội (Điều 15), điều này có nghĩa rằng, cơ quan tiến hành tố tụng không được bắt buộc bị can, bị cáo thực hiện trách nhiệm đó dưới bất kỳ hình thức nào. Tuy nhiên, cũng cần chú ý, nguyên tắc này đặt ra trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan buộc tội và người buộc tội, song pháp luật cũng nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác (Điều 10). Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án; không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội (Điều 98).
Quy định về “người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” nói lên rằng, người bị buộc tội luôn được quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa như Hiến pháp và Bộ luật Tố tụng hình sự đã xác định và thực hiện quyền đó bằng mọi biện pháp hợp pháp, trong đó có việc đưa ra chứng cứ chứng minh sự vô tội của mình. Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và minh bạch của tố tụng hình sự nhằm bảo đảm và bảo vệ công lý. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, những người tham gia tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền đưa ra chứng cứ mà không chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Đồng thời, những người này cũng có quyền trình bày ý kiến của mình về chứng cứ do các chủ thể tố tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó. Người bào chữa ngoài các quyền kể trên còn có quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản (khoản 1 Điều 73).
Người buộc tội cũng có quyền không trả lời các câu hỏi của cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng mà nhiều người còn gọi ngắn gọn là “quyền im lặng” của người bị buộc tội. Nội dung này bắt nguồn từ quyền không buộc phải chứng minh của bị can, bị cáo và trách nhiệm chứng minh thuộc về cơ quan và người buộc tội, nhằm bảo đảm tự do và an toàn cá nhân cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự, phù hợp với khoản 3 Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc: “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu như được thông báo không chậm trễ và chi tiết, bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu được về bản chất và lý do buộc tội mình, không bị buộc đưa ra lời khai chống lại mình, không bị buộc phải nhận là mình có tội”. Xuất phát từ yêu cầu này mà trong quá trình tiến hành các biện pháp điều tra như bắt, tạm giữ, tạm giam, nội dung về quyền của người bị buộc tội không khai báo chống lại mình đã được coi là một trong những thủ tục tố tụng bắt buộc.
Thứ ba, không ai có thể bị coi là có tội khi chưa được xác định bằng bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của của Tòa án.
Khoản 1, 2, 3 Điều 9, khoản 1 Điều 14 Công ước về quyền dân sự và chính trị năm 1966 của Liên Hợp quốc cũng đã xác định: Bất cứ người nào do bị bắt hoặc bị giam giữ mà bị tước tự do đều có quyền yêu cầu xét xử trước Tòa án nhằm mục đích để Tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và trả lại tự do nếu việc giam giữ là trái pháp luật. Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự.
Bản án của Tòa án là văn bản pháp lý thể hiện kết quả của hoạt động xét xử. Bản án kết tội của Tòa án xác định một người là tội phạm và phải chịu hậu quả pháp lý hình sự, do đó, bản án phải chính xác, có căn cứ, hợp lý, không thể dựa trên các giả định. Bởi vì giả định chỉ là khả năng, không phải là sự thật khách quan. Tòa án không thể bác bỏ suy đoán vô tội bằng các giả định phạm tội.
Bản án kết tội phải dựa trên các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, chứng minh bị cáo có tội. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác nêu ra nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó. Những yêu cầu trên đây được quy định tại các điều từ Điều 91 đến Điều 94, Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khi nói về chứng cứ, về lời khai của người làm chứng, của người bị hại, của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.
Mọi nghi ngờ phải được giải thích và áp dụng pháp luật theo hướng có lợi cho bị cáo. Nếu có nghi ngờ về lỗi của bị cáo mà không thể bổ sung gì hơn được về chứng cứ thì phải tuyên là bị cáo vô tội chứ không đòi hỏi phải có căn cứ xác định bị cáo vô tội. Hay nói cách khác, trong giai đoạn xét xử mà không thể thu thập được chứng cứ chứng minh tội phạm, không thể kết luận được những nội dung chủ yếu quy định tại Điều 85 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì Tòa án không kết tội bị cáo. Quy định này xuất phát từ tình huống của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, khi có sự không rõ ràng trong việc xác định căn cứ của trách nhiệm hình sự, các tình tiết liên quan đến tội và lỗi của người bị buộc tội mà cả quá trình tố tụng và các nỗ lực của các cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể làm rõ, dẫn đến tình huống hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các hướng giải quyết mà chính các cơ quan đó không thể khắc phục được. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy “thà làm oan còn hơn bỏ lọt”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khẳng định rõ, những hoài nghi đó nhất thiết phải được giải quyết theo hướng có lợi cho người bị buộc tội[13]. Rõ ràng, đây là một nội dung quan trọng và trọng tâm của nguyên tắc suy đoán vô tội, phản ánh bản chất nhân đạo của tố tụng hình sự dân chủ và pháp quyền, tạo ra lá chắn hữu hiệu cho sự an toàn pháp lý của người bị buộc tội.
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
[1]. Nguyên tắc suy đoán vô tội - Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11/2006.
[2]. Bùi Tiến Đạt, Vì sao “suy đoán có tội” phổ biến?, http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/vi-sao-suy-doan-co-toi-pho-bi- en-245080.html.
[3].Http://dic.academic.ru/dic.nsf/enc_law/1781/%D0%9F%D0%A0%D0%95%D0%97%D0%A3%D0%9C%D0%9F% D0%A6%D0%98%D0%AF.
[4].Http://dic.academic.ru/dic.nsf/enc_law/1781/%D0%9F%D0%A0%D0%95%D0%97%D0%A3%D0%9C%D0%9F% D0%A6%D0%98%D0%AF.
[5]. Lê Tiến, Nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật Tố tụng hình sự, Tạp chí Việt Nam hội nhập, http://vietnamhoinhap.vn/n5869_Nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-trong-Luat-to-tung-hinh-su .
[6]. Quy định tại Điều 49 Hiến pháp năm 2013 và Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001.
[7]. Điều 11.d của Hiến chương về quyền và tự do - đây là một bộ phận của Hiến pháp Canada.
[8]. Điều 12 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1996 của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Thông tin khoa học kiểm sát - Viện khoa học kiểm sát - Số 3+4/2007.
[9]. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013.
[10]. Viện Ngôn ngữ học (1998), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, tr. 36.
[11]. Nurcaeva M.К. Презумпция невиновности по УПК РФ в свете международных стандартов уголовного судопроизводства http://kalinovsky-k.narod.ru/b/ufa20033/03.htm.
[12]. Điều 21 Hiến pháp năm 2013.
[13]. “Nguyên tắc suy đoán vô tội - nguyên tắc hiến định quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015” của GS.TSKH. Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Kiểm sát số 02/2017.